Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Chín: Bốn Cửa Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16352)
Tắc thứ Chín: Bốn Cửa Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ CHÍN

BỐN CỬA CỦA TRIỆU CHÂU

 

THÙY: Gương sáng trên khung, xấu đẹp tự hiện. Gươm quí trên tay, tha hồ sinh sát. Hán đi hồ đến, hồ đến hán đi. Trong chết được sống, trong sống được chết. Thử nói xem, đến mức độ này thì thế nào? Nếu không có con mắt nhìn thấu quan hay chỗ để chuyển thân, đến mức độ này hiển nhiên người ta chẳng biết phải làm gì. Thử nói xem, thế nào là con mắt nhìn thấu quan và chỗ để chuyển thân. Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, "Triệu Châu là gì? “ Triệu Châu nói, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.”

BÌNH: Phàm việc tham thiền hỏi đạo là để tự thấy rõ mình, song phải tránh so đđo ngôn ngữ. Tại sao? Há không nghe Triệu Châu tụng cử rằng, “Đạo thật không khó, miễn đừng so đo” sao? Hoặc Vân Môn từng nói, “ Ngày nay những kẻ học thiền, tụm năm tụm ba, huyên thuyên bát sách rằng, “đây là những lời đặc biệt, đây là những lời có liên hệ đến bản thân mình,” Đâu có biết rằng cổ nhân dựa vào phưong tiện thiện xảo, bất đắc dĩ mà lập văn tự ngôn ngữ là chỉ vỉ để dẫn dắt những kẻ hậu học non kém, chưa rõ tâm địa, chưa thấy bổn tính, chưa thoát khỏi chấp trước. Tổ Sư ( Bồ Đề Đạt Ma) từ Tây Trúc qua, chỉ để truyền tâm ấn ( của Phật), chỉ thẳng vào tâm, thấy tính thành Phật, làm gì có những cái dây dưa như vầy? Cần phải cắt đứt ngôn ngữ, để đặc biệt thấy sự thật. Có thoát ra khỏi mọi chấp trước, mới như rồng gặp nước, hổ dựa núi được.

Những bậc cổ đức xưa tham Thiền lâu mà chưa thấu, thấu mà chưa sáng,[22]gọi đó là “hỏi thêm”[23]. Nếu như đã thấu mà vẫn hỏi thêm, thì phải xoay chuyển mãi trong ngôn ngữ cho đến khi nào không còn trệ ngại nữa. Người đã tham Thiền lâu và vẫn hỏi thêm, ấy là đưa thang cho giặc. Kỳ thực, việc này không ở nơi ngôn ngữ, cho nên Vân Môn mới nói, “ Việc này nếu ở nơi ngôn ngữ , ba thừa và mười hai phần giáo há không phải là ngôn ngữ, cần gì mà Tổ Đạt Ma phải từ Tây Trúc qua? Trong mười tám loạicâu hỏi của Phần Dương[24]thì đầy được coi là loại câu hỏi để thử thách chủ. Cũng còn được gọi là loại câu hỏi để thăm dò.

Ông tăng đặt câu hỏi này, quả là đặc sắc, ngoài Triệu Châu ra hẳn ai cũng càm thấy rất khó mà đương đầu với ông ta. Ông tăng hỏi, “Triệu Châu là gì?” Triệu Châu bản thân vốn là tay thành thạo, cho nên bèn trả lời, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Ông tăng nói “Đệ tử không hỏi Triệu Châu này.” Triệu Chấu nói, “ Thế chú hỏi Triệu Châu nào?” Sau này có người gọi đó là vô sự Thiền”, lừa dối thiên hạ không phải ít. Tại sao vậy? Ông tăng hỏi Triệu Châu, Triệu Châu đáp, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Cho nên mới có người bảo rằng thầy ta chỉ trả lời về Triệu Châu kia.Nếu mà ông hiểu như thế thì bọn nhà quê cũng hiểu Phật Pháp. Chỉ như vậy cũng đủ làm Phật pháp diệt vong. Như thế thì có khác gì đem mắt cá đi so sánh với ngọc trai, giống thì có giống nhưng mà không phải là một. Như lão tăng đã nói, không ở Hà Nam thì ở Hà Bắc. Thử nói xem, là hữu sự hay vô sự? Cần phải cẩn trọng lắm mới được.

Lục Công Viễn nói, “Câu cuối cùng mới đến gần cửa đóng, yếu chỉ chính không ở tại ngôn ngữ:mười ngày một cơn gió, năm ngày một cơn mưa. An bang lạc nghiệp, vỗ bụng âu ca. Đây gọi là thời tiết thái bình. Cái gọi là vô sự, không phải giả đui mà gọi là vô sự. Phải nhìn thấu được then chốt, vượt qua được rừng gai góc, tự tại thánh thoát, giống như một người bình thường trước đó, song lúc ấy tùy mình, hữu sự cũng được mà vô sự cũng được. Bốn phương tám hướng tung hoành, không còn chấp không làm có nữa. Có người nói, “ Vốn dĩ chẳng có việc gì cả, có trà uống trà, có cơm ăn cơm.” Đây đúng là đại vọng ngữ, tôi gọi đó là chưa đắc mà tưởng là mình đắc, chưa chứng mà tưởng là mình chứng. Nguyên lai vố vốn chưa tham thấu được, lúc nghe người ta nói tâm nói tính, nói huyền nói diệu bèn bảo, “Đó chỉ là cuồng ngôn bản lai vốn chẳng có gì cả.” Đây đúng là một kẻ mù dắt một bọn mù. Đâu có biết rằng lúc Tổ Sư chưa tới, có đời nào người ta lại gọi trời là đất, gọi núi là sông? Tại sao Tổ Sư còn phải từ Tây Trúc đến nữa? Các nơi nhập thất thăng tòa để nói cái gì? Toàn là tri thức cảm quan và khái niệm hóa. Chỉ khi tri thức cảm quan và khái niệm hóa dứt bặt mới có thể nhìn thấu được. Nếu nhìn thấu được rồi thì y như xưa trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông.

Cổ nhân nói, “Tâm là căn, pháp là trần[25], cả hai giồng như tỳ vết trong gương.”Tỳ vết sạch hết gương mới sáng, tâm pháp đều quên tính là chân[26]. Đến giới cảnh giới này tự nhiên được tự tại thánh thoát. Dù cho là cùng cực của lý luận đi nữa cũng chưa hẳn là chốn an ổn. Đến chỗ này người ta thường hay hiểu lầm, cho nên Phật cũng không lễ mà hương cũng chẳng thắp. Giống thì có giống song làm sao mà đã có thể gọi là thánh thoát tự tại được? Mới hỏi họ, thì họ làm như là đã đạt đến cùng cực, nhưng mà hỏi dồn thêm nữa, họ lại đâm ra lúng ta lúng túng.Họ ngồi đó với bụng trống tâm cao, song khi ngày cuối tuần gần kề thì có xoa tay đập ngực đi nữa cũng đã quá trễ. Ông tăng hỏi như thế, Triệu Châu trả lời như thế. Thử nói xem, phải rờ rẫm như thế nào? Như vầy không được, không như vầy cũng không được. Rốt cuộc như thế nào? Mấy cái này chính là chỗ khó. Cho nên Tuyết Đậu mới nêu ra để chỉ cho thiên hạ.

Một hôm Triệu Châu đang ngồi, thị giả vào bảo rằng, “Đại vương đến”. Triệu Châu ngạc nhiên nói, “Đại vương vạn phúc.” Thị giả nói, “Bạch hòa thượng đại vương chưa đến, Triệu Châu nói, “ Thế mà chú lại bảo là đã đến.” Thầy đến chỗ này quả là kỳ đặc. Nam Thiền Sư niệm rằng, “ Thị giả chỉ biết báo khách, không biết thân tại đế hương. Triệu Châu rẽ cỏ tìm người, không khỏi thân đầy bùn nước.” Các ông muốn biết sự thật về vấn đề này chăng? Xin đọc tụng của Tuyết Đậu.

TỤNG: 

Trong câu vấn để trình thẳng đến,

Trong mắt kim cương[27] không hạt bụi.

Đông nam tây bắc đối diện nhau,

Bao nhiêu trùy đập mở không ra.

BÌNH: Triệu Châu xử trí với hoàn cảnh giống như Kim Cương Bảo Kiếm. Ông vừa định suy nghĩ nói đã cắt mất đầu ông rồi. Nó lại thường móc mắt ông ngay trước mặt ông. Tuy nhiên ông tăng này dám vuốt râu cọp mà đặt một câu hỏi. Giống như không có chuyện lại đi bày vẽ ra chuyện như thể trong câu có vấn đề. Ông ta đã đặt vấn để ra, Triệu Châu cũng chẳng phụ lòng ông ta, cho nên cũng đáp lại vấn đề. Không phải thầy ta đặc biệt như thế, bởi vì thầy ta là người đã thấy suốt, cho nên mới biết hòa điệu với ông tăng kia, tựa như thể có an bài trước.

Há không nghe nói có một ngoại đạo cầm một con chim sẽ trong tay đến hỏi Phật, “ Thử nói xem, con chim trong tay tôi là sống hay chết?” Phật bèn ra đứng giữa ngưỡng cửa hỏi, “Ông thử nói xem tôi đang ra hay vào?”[28]. Ngoại đạo không nói được, bèn cúi lạy.Câu chuyện này cũng giống như công án trên, từ đó huyết mạch của cổ nhân không bị đứt đoạn. Cho nên có lời nói rằng, “ Câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu rả lời nằm trong câu hỏi.”

Tuyết Đậu nhìn thấu sự vật như thế cho nên nói”. Trong câu vấn đề trình thẳng tới”. Trong câu có vấn đề lại giống như có hai nghĩa. Giống như hỏi người lại cũng giống như hỏi cảnh. Triệu Châu chẳng di dịch một mảy may bèn trả lời, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Trong mắt kim cương không hạt bụi.” Câu tụng này Triệu Châu đoạt cả người lẫn cảnh, đặt vấn đề trong câu cũng như trả lời ông tăng. Đây gọi là có vấn đề, có đối tượng. Thoáng một cái đã trông thấy tâm can ông tăng kia. Nếu không như thế Triệu Châu khó mà so nổi với câu hỏi của ông tăng kia. Thược –ca-la tiếng Phạn có nghĩa là kiên cố, cũng có nghĩa là kim cương, ngụ ý đôi mắt chiếu sáng vô ngại. Không những chỉ có thể nhìn thấy một sợi lông cách xa ngàn dặm mà còn có thể quyết định tà chính, phân biệt đắc thất, thấy được hoàn cảnh thích hợp, biết được đúng sai.

Tuyết Đậu nói, “Đông tây nam bắc đối diện nhau, bao nhiêu trùy đập không mở ra, “Đã đập đến bao nhiêu nhát trùy cớ sao lại không tập trung ra được? Phải chăng chổ thấy của Tuyết Đậu là như thế? Các ông làm thế nào để mở cửa này ra đây? Xin suy niệm cho cặn kẽ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15043)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13486)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15181)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16567)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13257)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12616)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13508)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13463)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12799)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12093)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12014)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12692)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11535)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11824)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11188)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13332)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13210)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11623)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12210)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12385)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11999)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12776)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12403)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12238)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12307)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12049)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11966)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11261)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11401)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12400)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12492)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12021)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12993)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12077)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12629)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13041)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13979)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12768)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14892)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11944)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12200)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12906)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12784)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14809)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12787)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15431)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12610)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13247)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14281)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15587)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13761)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13158)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13596)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12509)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12098)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12924)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13026)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13255)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21369)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143759)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant