Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Chín Mươi Ba: Đại Quang Sư Nhảy Múa

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14902)
Tắc thứ Chín Mươi Ba: Đại Quang Sư Nhảy Múa

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI BA

ĐẠI QUANG SƯ NHẢY MÚA

 

CỬ: Có ông tăng hỏi Đại Quang, “Trường Khánh nói, ‘Nhân thụ trai mà tán thán,’ có nghĩa là gì?” Đại Quang bèn nhảy múa. Ông tăng cúi lậy. Đại Quang bèn nhảy múa. Ông tăng cúi lậy. Đại Quang nói, “Ông thấy được cái gì mà lậy vậy?” Ông tăng bèn nhảy múa. Đại Quang nói, “Con chồn hoang quỉ này!”

BÌNH: Hai mươi tám vị tổ Ấn Độ và sáu vị tổ Trung Hoa chỉ trao truyền cái này mà thôi, song các ông có hiểu cốt ý của nó không? Nếu các ông biết thì các ông tránh được lời này, còn nếu không thí vẫn chỉ là những con chồn hoang quỉ như cũ.

Có người bảo rằng Đại Quang chỉ xoay quanh lỗ mũi ông tăng kia mà lừa dối người, nếu như thật là thế thì là đạo lý gì đây? Đại Quang rất khéo vì người khác, trong lời nói của thầy ta luôn luôn có con đường xuất thân. Đại phàm các bậc tông sư cần phải nhổ đinh bạt chốt cởi dính gỡ rối cho thiên hạ thì mới có thể được gọi là thiện tri thức.

Đại Quang nhảy múa, ông tăng kia lễ lậy. Cuối cùng ông tăng kia cũng nhảy múa, Đại Quang lại nói, “Cái con chồn hoang quỉ này!” Đó không phải là quay ông tăng. Rốt cuộc nếu như các ông không hiểu mà chỉ nhảy múa loạn xạ như thế, biết đến bao giờ mới thôi đây? Đại Quang nói, “Cái con chồn hoang quỉ này!” Lời nói này cắt đứt Kim Ngưu, quả là kỳ đặc. Cho nên mới có câu nói rằng, “Thầy ta tham câu sống không tham câu chết. Tuyết Đậu chỉ thích thầy ta nói, “Cái con chồn hoang quỉ này!” là giống hay khác với “Tạng đầu trắng Hải đầu đen,” “cái thùng đen này!” hay “hảo sư!” Thử nói xem những cái này là giống hay khác nhau? Các ông có hiểu không? Chỗ nào cũng gặp phải vấn đề đó cả. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Tên trước còn nhẹ tên sau sâu,

Ai bảo lá vàng là vàng ròng?

Sóng nước Tào Khê nếu tương tự,

Biết bao người thường bị chìm đắm.

BÌNH: “Tên trước còn nhẹ tên sau sâu.” Đại Quang nhảy múa là mũi tên trước. Thầy ta cũng lại nói, “Cái con chồn hoang quỉ này!” Đó là mũi tên sau. Từ xưa đến nay đó vẫn là răng với móng. “Ai bảo lá vàng là vàng ròng?” Ngưỡng Sơn dạy chúng rằng, “Các ông mỗi người phải tự hồi quang phản chiếu, đừng có ghi nhớ lời tôi. Các ông từ vô thủy kiếp đến nay quay lưng về ánh sáng mà cắm đầu vào bóng tối; gốc rễ của các vọng tưởng quá thâm sâu khó mà nhổ bạt ngay ra được. Cho nên tôi mới giả lập ra phương tiện để mà đoạt cái thô thức của các ông đi, giống như lấy lá vàng để dỗ trẻ con nín khóc.” Giống như lấy trái ngọt mà đổi lấy bầu đắng.

Cổ nhân tạm lập ra phương tiện để giúp thiên hạ; lúc họ nín khóc rồi thì lá vàng đâucó phải là vàng ròng. Đức Thế Tôn giảng dạy một đời cũng chỉ là những lời để dỗ chúng sinh nín khóc mà thôi.” Cái con chồn hoang quỉ này!” Thầy ta chỉ muốn chuyển hoán nghiệp thức của người khác mà thôi; trong ấy có cả quyền lẫn thực cũng có cả chiếu dụng. Chỉ ở chỗ đó các ông mới thấy được căn để của nạp tăng. Nếu như các ông hiểu được, các ông cũng giống như con cọp thêm cánh vậy đó.

“Sóng nước Tào Khê nếu tương tự.” Nếu như hốt nhiên các học nhân ở khắp mọi nơi mà chỉ lo nhảy múa như thế này, lúc nào cũng chỉ như thế này thì vô hạn những người bình thường hẳn đã bị chìm đắm. Còn có chỗ nào để cứu họ vậy?
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15013)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13447)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15133)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16501)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13217)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12588)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13467)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13423)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12775)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12076)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11978)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12652)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11478)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11783)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11158)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13281)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13165)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11590)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12171)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12359)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11956)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12751)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12372)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12263)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12011)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11956)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11230)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11374)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12379)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12468)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12000)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12966)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12048)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12605)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13016)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13945)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12741)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14876)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11930)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12193)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12884)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12774)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14771)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12751)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15394)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12581)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13219)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14249)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15551)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13142)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13572)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12489)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12092)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12898)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12988)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13219)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21338)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143675)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant