Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Sáu: Bác Trượng Ngồi Một Mình Trên Đỉnh Đại Hùng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15445)
Tắc thứ Hai Mươi Sáu: Bác Trượng Ngồi Một Mình Trên Đỉnh Đại Hùng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI SÁU

BÁCH TRƯỢNG NGỒI MỘT MÌNH TRÊN ĐỈNH ĐẠI HÙNG

 

CỬ: Có ông tăng hỏi Bách Trượng, Thế nào là sự việc kỳ đặc?” Bách Trượng nói, “Ngồi một mình trên đỉnh Đại Hùng.” Ông tăng lễ lậy, Bách Trượng bèn đánh.

BÌNH:Gặp cơ duyên có đủ mắt nhìn, chẳng màng nguy vong. Cho nên mới có câu nói, “Không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con?” Bách Trượng bình thường giống như con cọp mọc cánh. Ông tăng này cũng không nệ sinh tử, dám vuốt râu hùm cho nên mới hỏi, “Thế nào là sự việc kỳ đặc?” Ông tăng này kể cũng có mắt. Bách Trượng bèn chịu gánh nặng cho ông ta, nên mới nói, “ Ngồi một mình trên đỉnh Đại Hùng.” Ông tăng kia bèn lễ lậy. Các nạp tăng cần phải biện được cái ý trước câu hỏi thì mới được.

Ông tăng này lễ lậy không giồng như bình thường, cần phải có mắt mới có thể như thế được. Đừng bắt ông ta phải thố lộ tâm can bình sinh cho người khác. Biết nhau mà giống như không biết nhau. Còn việc ông tăng kia hỏi,” Thế nào là sự việc kỳ đặc?” Bách Trượng nói, “ Ngồi một mình trên đỉnh Đại Hùng.” Ông tăng lễ lậy, Bách Trượng bèn đánh. Nhìn xem, lúc buông bỏ cả hai đều như thế cùng một lúc, lúc thu về thì họ quét sạch hết tung tích. Thử nói xem, lúc ông ta lễ lậy, ý chỉ như thế nào?

Nếu như các ông bảo là hay thì tại sao Bách Trượng lại đánh ông ta? Nếu bảo là không hay , thì ông ta lễ lậy có chỗ nào là không phải? Đến chỗ này rồi thì các ông phải biết phân biệt lỗi phải, tăng tục, đứng trên đỉnh cao ngàn trượng mới được.

Ông tăng này lễ lậy giống y như thể vuốt râu hùm, nhằm tranh một chỗ chuyển than. May mà Bách Trượng có mắt trên đỉnh đầu, có bùa sau khuỷy tay, chiếu phá tứ thiên hạ, phân biện được căn cơ của kẻ tới. Cho nên thầy ta mới đánh ông tăng. Nếu như là người khác hẳn đã chẳng làm gì được ông tăng. Ông tăng này lấy căn cơ đối căn cơ, dung ý đuổi theo ý, cho nên ông ta mới lễ lậy.

Nam Tuyền nói, “Đêm qua lúc canh ba Văn ThùPhổ Hiền khởi Phật kiến Pháp kiến. Tôi đánh cho mỗi người hai mươi gậy và biếm cho bị nhốt giữa hai dẫy núi sắt.” Lúc ấy Triệu Châu bước ra khỏi chúng hội nói, “Gậy của hòa thượng bắt ai ăn đây?” Nam Tuyền nói, “ Vương Lão Sư có lỗi ở chỗ nào?” Triệu Châu bèn cúi lậy . Các bậc thầy trong tông môn chúng ta thường không lơ là quan sát chỗ thụ dụng của người khác.Lúc làm chủ chốt tình hình nêu lên (công án) thì lại sống động hết sức.

Ngũ Tổ (Pháp Diễn) thường nói, “ Giống như thể xô đẩy nhau dưới chân ngựa.” Các ông chỉ cần cắt đứt hết kiến văn thanh sắc thì các ông có thể nắm chắc và làm chủ tình hình được. Chỉ lúc ấy các ông mới thấy Bách Trượng được. Song thử nói xem, lúc buông bỏ thì như thế nào? Thử xem tụng của Tuyết Đậu xem.

TỤNG

Tổ vực tung hoành thiên mã câu,

Cuốn mở phương tiện không cùng đường.

Đá lửa điện chớp còn cơ biến,

Nực cười người đến vuốt râu hùm.

BÌNH: Tuyết Đậu nhìn thấu được cho nên mới tụng ra. Thiên mã câu mỗi ngày đi nag2n dặm, chạy ngang chạy dọc bôn trì như bay cho nên mới gọi là thiên mã câu. Tuyết Đậu tụng Bách Trượng trong tổ vực chạy từ đông sang tây, từ tây sang đông, lúc đi lúc về, tung hoành ngang dọc không chút trở ngại, giống như thể thiên mã câu. Khéo bay nhảy, cho nên mới thấy được chỗ tự do. Đó là nhờ thầy ta đắc được đại cơ đại dụng từ Mã Tổ.

Há không nghe có ông tăng hỏi Mã Tổ, “ Thế nào là đại ý của Phật pháp?” Mã Tổ bèn đánh và nói, “ Nếu như tôi không đánh ông, tất cả mọi người trong thiên hạ sẽ chê cười tôi.” Ông tăng lại hỏi, “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc qua?” Mã Tổ nói, “Đến gần đây tôi sẽ nói cho ông.” Ông tăng ghé đến gần, Mã Tổ bèn bẹo tai ông tăng rồi nói, “ Sáu tai không đồng một ý.” Nhìn xem Mã Tổ đạt được tự tại như thế, ở trong phương tiện cuốn mở tùy ý. Có lúc mở không ở nơi cuốn, có lúc cuốn không ở nơi mở, có lúc cuốn mở đều không có. Cho nên mới có câu nói, “Cùng đường mà không chung lối.” Đó là để tụng cái khả năng này của Bách Trượng.

Tuyết Đậu nói, “Đá lửa điện chớp còn cơ biến.” Đó là để tụng ông tăng kia như đá lửa điện chớp, ở trong chỗ có chút cơ biến này. Nham Đầu nói, “ Khước từ sự vật là thượng, đuổi theo sự vật là hạ. Nếu luận về việc chiến thì mọi người đều đứng nơi chỗ chuyển xứ.” Tuyết Đậu nói, “ Cơ luân chưa từng bao giờ chuyển. Nếu như chuyển hẳn nó sẽ xoay theo hai phía.” Nếu như nó không chuyển được, thì ích lợi ở chỗ nào? Bậc đại trượng phu cũng phải biết đôi chút cơ biến mới được. Người thời nay chỉ biết bày tỏ cái khẩn khoản của mình để rồi bị xỏ mũi, biết đến bao giờ mới dứt dây?

Ông tăng kia biết giữ cơ biến giữa đá lửa điện chớp cho nên mới lậy. Tuyết Đậu nói, “Nực cười người đến vuốt râu hùm.” Bách Trượng giống như một con cọp, nực cười thay ông tăng kia dám đến vuốt râu hùm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15051)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13496)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15192)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16580)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13264)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12626)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13513)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13485)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12806)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12099)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12024)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12695)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11539)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11829)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11193)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13339)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13220)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11629)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12221)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12391)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12016)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12781)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12250)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12316)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12052)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11968)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11266)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11406)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12498)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12028)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12998)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12092)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12635)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13048)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13995)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12769)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14900)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11966)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12914)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12794)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14816)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12791)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15437)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12619)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13249)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14289)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15603)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13770)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13163)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13601)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12513)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12108)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12936)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13261)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21373)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143815)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant