Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Năm Mươi Chín: Triệu Châu Và "Đừng So Đo"

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15777)
Tắc thứ Năm Mươi Chín: Triệu Châu Và "Đừng So Đo"

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI CHÍN

TRIỆU CHÂU VÀ “ĐỪNG SO ĐO”

 

THÙY: Bao trời chum đất, vượt thánh siêu phàm. Trên đầu trăm ngọn cỏ, chỉ ra niết bàn diệu tâm. Trong rừng can qua, điểm định mạng sống của nạp tăng. Song thử nói xem, có được sức lực như thế, thì đạt được gì? Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Đạo lớn không khó, miễn đừng so đo. Vừa có ngôn ngữ là có so đo rồi, hòa thượng giúp người như thế nào?” Triệu Châu nói, “Tại sao không dẫn hết cả câu ra?” Ông tăng nói, “Đệ tử chỉ nhớ được đến đó thôi.” Triệu Châu nói, “Chỉ có ‘đạo lớn không khó, miễn đừng so đo’ mà thôi.”

BÌNH: Triệu Châu nói, “Chỉ có ‘đạo lớn không khó, miễn đừng so đo,’” giống như đá lửa điện chớp. Nắm buông sát hoạt, mới tự tại làm sao. Các nơi đều nói rằng Triệu Châu có tài hung biện siêu quần. Triệu Châu bình thường hay dậy đồ chúng bằng câu, “đạo lớn không khó, miễn đừng so đo. Vừa có ngôn ngữ là có so đo rồi. Điều ấy hiển nhiên. Lão tăng không ở nơi minh bạch, các ông có còn ôm giữ nữa không?” Lúc ấy có ông tăng hỏi, “Đã không còn ở nơi minh bạch, các ông có còn ôm giữ nữa không?” Lúc ấy có ông tăng hỏi, “Đã không còn ở nơi minh bạch, thì còn ôm giữ gì nữa?” Triệu Châu nói, “Ta cũng chẳng biết.” Ông tăng nói, “Hòa thượng đã không biết, tại sao còn nói là không ở nơi minh bạch?” Triệu Châu nói, “Hỏi như thế là cũng đủ rồi, mau cúi lậy rồi lui đi.”

Sau đó ông tăng lại nhắm chỗ sơ hở của Triệu Châu mà hỏi, hỏi cũng một cách hết sức kỳ đặc, song cũng vẫn chỉ là tâm hành. Nếu như là người nào khác hẳn là đã chẳng làm gì được ông tăng này. Rủi thay Triệu Châu vốn là bậc chuyên gia, cho nên bèn nói ngay, “Tại sao không dẫn hết cả câu ra?” Ông tăng này cũng biết xoay chuyển để lộ khí phách cho nên mới nói, “Đệ tử chỉ nhớ được đến đó thôi.” Giống như thể đã được an bài. Triệu Châu biết phân biệt rồng rắn, đúng sai, quả là có khả năng của bậc chuyên gia. Triệu Châu móc mắt ông tăng kia mà tay không phạm phải mũi nhọn. Chẳng cần so đo mà tự nhiên khế hợp vô cùng.

Bảo là Triệu Châu có nói cũng mà bảo là Triệu Châu không có nói cũng sai; mà bảo là vừa có vừa không có cũng đều sai. Triệu Châu ly tứ cú tuyệt bách phi. Tại sao vậy? Nếu như muốn bàn luận về vấn đề này, quả thất như đá lửa điện chớp. Phải để mắt mà nhìn thật nhanh thì mới thấy được. Nếu như toan bàn cãi hay trù trừ thì khó mà đừng táng thân thất mạng. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Nước tưới không được,

Gió thổi không vào.

Cọp bước rồng đi,

Quĩ kêu thần khóc.

Đâu dài ba tấc biết là ai?

Đối đáp không lời đứng một chân.

BÌNH: “Nước tưới không được, gió thổi không vào. Cọp bước rồng đi, quỉ kêu thần khóc.” Không có chỗ để các ông gậm cắn. Bốn câu này tụng câu trả lời của Triệu Châu, giống như thể rồng bay cọp nhảy. Ông tăng này chỉ một phen bối rối. Không những chỉ ông tăng này mà ngay cả quỉ cũng kêu thần cũng khóc. Giống như thể gió thổi qua cỏ rạp xuống.

Hai câu cuối cùng, có thể nói là “ hiểu được chính xác.” “Đầu dài ba tấc biết là ai, đối đáp không lời đứng một chân.” Há không nghe có ông tăng hỏi một bậc cổ đức, “Phật là gì?” Cổ đức nói, “Đầu dài ba tấc cổ dài hai phân.” Tuyết Đậu dẫn dụng câu này. Không hiểu các ông có biết không, chứ sư núi tôi thì vẫn chưa biết. Tuyết Đậu trong một lúc mô tả ngay được Triệu Châu. Cái thật bao giờ cũng ở bên trong: các ông phải cẩn thận để mắt nhìn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15052)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13498)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15194)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16581)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13264)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12626)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13515)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13487)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12807)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12101)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12025)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12695)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11541)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11830)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11194)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13340)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13221)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11629)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12222)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12391)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12016)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12782)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12251)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12316)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12053)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11969)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11266)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11407)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12406)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12498)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12028)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12998)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12095)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12635)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13050)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13995)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12769)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14900)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11967)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12916)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12794)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14819)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12791)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15437)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12620)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13251)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14290)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15606)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13770)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13163)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13603)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12513)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12108)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12937)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13261)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21373)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143868)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant