Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngũ Giới

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13195)
Ngũ Giới

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

NGŨ GIỚI

Ngũ giớinăm giới cấm của tín đồ đạo Phật. Một người đã phát nguyện quy y Tam bảo, không quy y thiên, thần, quỷ, vật, ngoại đạotà giáo và tổn hữu, ác đảng, thì đã thành tín đồ đạo Phật. Nếu một đời giữ phép Tam Quy này một cách nghiêm túc, không đi theo những dị đoan, mê tín, thì cũng được hưởng những nghiệp báo rất tốt.

Ngoài ra, những tín đồ đạo Phật, dầu là thiện nam tức là ưu-bà-tắc, hay tín nữ tức là ưu-bà-di, phát lòng tin chắc chắn về nhân quả, nghiệp báo và muốn tránh những điều dữ, thì nên phát nguyện giữ từ một tới năm giới cấm của tín đồ là bất sát, bất đạo, bất tà dâm, bất vọng ngữ, và bất ẩm tửu. Người giữ được một giới, trong năm giới, thì gọi là nhất phần Ưu-bà-tắc hoặc Ưu-bà-di, người giữ được hai giới thì gọi là nhị phần, cho đến người giữ được năm giới thì gọi là toàn phần Ưu-bà-tắc hoặc Ưu-bà-di. Nếu chưa phát nguyện giữ được giới nào, thì chỉ gọi là Tam quy Ưu-bà-tắc hoặc Ưu-bà-di.

Phật chia ra có nhiều hạng như thế, vì biết rõ căn cơhoàn cảnh của tín đồ, lắm khi không cho phép giữ đủ ngũ giới. Lại nếu thọ giới mà không giữ, thì có lỗi mà mất cả lợi ích của việc giữ giới.

Nên phân tích hành tướng của các giới thật rõ, để cho câc tín đồ tùy sứcthọ giới và sau đó giữ giới cho nghiêm túc.

1. Giới bất sát: Giới bất sát của tín đồ là bất sát nhân, chứ không phải là giới bất sát sanh, nghĩa là tín đồ chỉ giữ giới không giết người, chớ không giữ giới không giết các sanh vật khác. Trước đây, nhiều người giảng nghĩa giới bất sát của tín đồ là bất sát sanh, thế là lầm qua Bồ-tát giới, một giới rất khó giữ, dành riêng cho những vị đã phát Bồ-đề tâm. Vẫn biết sát sanh cũng là điều ác, nhưng trong sinh hoạt hằng ngày của tín đồ, khó mà giữ cho bất sát sanh được trọn vẹn, lại có người làm nghề nghiệp bắt buộc phải sát sanh hằng ngày. Đã thọ giới thì phải giữ trọn suốt đồi. Vì tất cả mọi người, bất cứ nghề nghiệp gì, đều phải có khả năng thành tín đồ đạo Phật, nên không chỉ định bất sát sanh là giới của tín đồ. Chính vì giới không giết tất cả các sinh vật rất khó giữ, nên các bậc Sa-di cũng chỉ giữ giới bất sát nhân, đối với các vị Tỳ-kheo thì giới bất sát chia làm hai phần: giới bất sát nhân thuộc đề tử khí, nếu phạm thì không được làm Tỳ-kheo nữa, còn giới bất sát sanh chỉ là một giới nhẹ, nếu cố ý phạm thì phải sám hối mà thôi. Vậy thì biết, giới của tín đồ là giới thấp nhất, chỉ có thế là giới bất sát.

Tất cả các pháp của Phật dạy, đều là những phương tiện hóa độ theo căn cơ của chúng sanh, nên Phật thuyết giới lúc nào cũng có mức, vì nếu quá mức thì trở nên có hại. Hiện nay, trong hàng tín đồ, nhiều người thọ Bồ-tát giới mà chưa phát Bồ-đề tâm, nên rốt cuộc, chẳng những không giữ được tâm giới mà cũng không giữ được thân giới và khẩu giới. Không tự xét mà thọ giới, rồi không giữ như vậy, thì phạm tội phỉ báng Pháp, rất có hại cho sự tu tiến.

Tín đồ đạo Phật đã thọ giới bất sát nhân, thì suốt đời phải giữ cho trọn vẹn, tự mình không giết, không bảo người khác giết, cho đến khi thấy người khác giết, cũng không được tùy hỉ, nghĩa là tán thành hoặc biểu đồng tình.

Nhưng cũng có những trường hợp sau đây, mà người đã thọ giới có thể giết người, mà không bị phá giới:

a. Vô ý mà giết người (vô tâm sát).

b. Theo pháp luật mà giết người, như quan tòa theo háp luật mà giết người, lên án tử hình (pháp luật sát).

c. Vì chức vụ mà giết người, như những người thi hành án tử hình (chức nghiệp sát).

d. Để ngăn chận sự giết người mà giết người, như giết quân xâm lược, để chúng khỏi tàn sát đồng bào (dĩ sát chỉ sát). Trong trường hợp này, giết người để cứu người là làm việc thiện, là giữ giới nghiêm chỉnh.

2. Giới bất đạo: Giới bất đạo ngăn cấm không được trộm cắp của cảu người khác, hoặc lấy của cải người khác bằng những thủ đoạn sai trái.

GIới này được phân tích như sau:

a. Bất dữ thử: nghĩa là người ta không vui lòng cho mình mà cứ lấy, như ăn trộm, ăn cắp v.v.

b. Biến trá thủ: Là phỉnh gạt, lừa dối để lấy của.

c. Uy hiếp thủ: Là dùng thế lực uy hiếp để lấy của.

d. Phi thời thủ: Là chưa đến thời để lấy của, như con lấy của cha mẹ trước khi được chia gia tài, người công chức tự lấy lương trước để chi dụng v.v.

e. Phi phận thủ: Là không phải phận mình được lấy mà cứ lấy, như khi phân phối tiền của chưa đúng tỷ lệ, chưa công bằng hợp lý, có lợi cho mình mà mình cứ lấy.

f. Vô công thủ: Là không có công sức gì mà cứ lấy. Ngày xưa, thường giải nghĩ vô công thủ là làm việc dối trá mà cứ lấy tiền công, nhưng xét cho cùng, thì những người không lao động, sống bằng mồ hôi kẻ khác, đều phạm tội vô công thủ.

Trong những trường hợp đã kể trên, người đã thọ giới hoặc tự mình lấy hoặc bảo người khác lấy, hoặc thấy người khác lấy mà tùy hỉ thì đều phạm giới. Còn nếu vô ý lấy lầm, hoặc theo pháp luật, vì chức vụ mà lấy, hoặc lấy lại những vật bị trộm cắp lấy trả lại cho người chủ cũ thì không phạm giới.

3. Giới bất tà dâm: giới này ngăn cấm những sự dâm dục không chánh đáng, phân tích ra có những hành tướng như phi phận dâm, phi thời dâm, phi xứ dâm, phi nhân dâm v.v. Nhưng cốt yếu là cấm không được làm việc dâm dục với vợ,chồng người khác. Nếu tự mình làm, hoặc bảo người khác làm, hoặc thấy người khác làm việc tà dâmtùy hỉ thì phạm giới.

4. Giới bất vọng ngữ: giới bất vọng ngữ của tín đồ là không được đại vọng ngữ, nghĩa là chưa giác ngộ đã bảo là ngộ, chưa chứng đã xưng là chứng. Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, là những điều ác không nên làm hoặc ít làm chừng nào thì tốt chừng ấy, nhưng không quy định là giới của tín đồ, vì giới thì phải giữ suốt đời và mức của tín đồ thì khó giữ suốt đời không phạm những điều vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, và lưỡng thiệt.

5. Giới bất ẩm tửu: Giới này ngăn cấm tín đồ không được uống rượu. Bốn giới trước thuộc về tánh giới, do bản chất của các điều sát, đạo, dâm, vọng là ác, nên tín đồ đã thọ giới, thì cần phải tự ngăn mình suốt đời không được làm. Còn giới bất ẩm tửu thì thuộc về giá giới, vì bản tính của sự uống rượu không phải là ác, gây nên những điều ác. Vì thế giới bất ẩm tửu không cấm tín đồ tuyệt nhiên không uống rượu và chỉ cấm không được vô cớ hoặc mượn cớ mà uống rượu, nhưng dù trong những trường hợp được uống rượu, như trong các nghi lễ, thì tín đồ cũng không được uống nhiều quá, đến say sưa. Uống rượu thường xuyên hay đến say sưa, có hại cho tri thông minh và sự tu trì, nên trừ những trường hợp nhất định, nếu tự mình uống, bảo người khác uống, hoặc thấy người khác uống rượu say sưa mà tùy hỉ, thì phạm giới. Ngược lại, tín đồ đạo Phật có thể uống một ít rượu để chữa bệnh hoặc để chia vui cùng người khác, trong các nghi lễ là không phạm giới.

Trong lúc Phật tại thế, chỉ có rượu là chất độc làm hao tổn tinh thần, nên cấm không được dùng nhiều vô cớ, hiện nay thì còn nhiều chất độc khác nguy hiểm hơn rượu, sinh ra nghiện ngập và tác hại nhiều đến trí khôn, như thuốc phiện, cô-ca-in v.v. Theo tinh thần của giới này, thì cũng cần cấm cả các thứ đó, như cấm rượu.

Phân tích năm giới như trên, là phân tích theo đạo lý Tiểu thừa, đã có lý, có mức và cũng có lợi nữa, vì căn cơhoàn cảnh của tín đồ, chỉ có thể giữ những giới thấp nhất, vì nếu đưa lên quá mức, thì tối đại đa số người không dám thọ giới hoặc thọ giới rồi mà không giữ được trọn vẹn, mất cả lợi ích của việc trì giới.

Hiện nay, mỗi khi có người thọ Tam quy, thì đều cho thọ ngũ giới, cả đến cả những em bé ba bốn tuổi cũng thế, đó là một điều sai lầm. Cần phải giảng cho nghe trước, thế nào là Tam quy, thế nào là Ngũ giới, nêu ra những lợi ích của việc trì giới, để cho người ta suy nghĩ kỹ lượng, nếu có khả năng giữ bao nhiêu giới thì thọ bấy nhiêu, chứ không nên bao gánh cả một chuyến, rồi cuối cùng không giữ được một giới nào cả.

Lợi ích trên đường tu hành không phải là ở chỗ thọ nhiều giới, mà ở chỗ thọ giới nào thì giữ giới ấy cho trọn vẹn. Một tín đồ chỉ thọ một vài giới trong Ngũ giới hoặc chỉ thọ Tam quy mà biết phát nguyện trọn đời gìn giữ không phạm, thì sẽ nhân đó, luôn luôn tưởng nhớ Tam bảo, luôn luôn tự xét mìnhngăn ngừa những tâm niệm không tố. Do đó, được nhiều ích lợi trên đường tu tập. Ngược lại, nếu thọ giới nhiều, mà không giữ nổi và chỉ phạm một giới, thì phá mất giới thể và tâm sinh buông lửng, không tự giữ mình, không nghĩ tới Tam bảo, không nhớ đến nhân quả, nghiệp báo, nên đạo đức càng ngày càng suy kém.

Giữ ngũ giớiích lợi rất lớn. Người giữ được trọn vẹn ngũ giới là một người tốt, được mọi người tin cậy, là một người luôn luông hướng về điều thiện, nên thường được sinh lên các cõi trời. Nếu với cái tâm trí giới hướng thiện đó, người tín đồ còn biết niệm Phậtphát nguyện vãng sanh, thì sẽ được vãng sanh về các cõi Tịnh độ. Dầu cho chỉ thọ một hoặc hai giới, dầu chỉ thọ Tam quy mà giữ trọn vẹn thì nhất định cũng được trở lại làm người, không bị sa đọa.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 340)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 335)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 431)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 789)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 793)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 897)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 869)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1159)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1388)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1170)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2477)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1876)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3576)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1697)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2633)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2403)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2062)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 3018)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2109)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2435)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1872)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1763)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2498)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1561)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2869)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1925)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3855)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2170)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 2011)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2560)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4548)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1973)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2862)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1694)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2590)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2679)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2080)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3667)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3119)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2060)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2109)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2424)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2116)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1963)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2500)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2181)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2212)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2624)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3689)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2275)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3375)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3053)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5326)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2674)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3944)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5367)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3909)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2829)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2551)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2775)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant