Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngài Long Thọ

06 Tháng Mười 201512:53(Xem: 16140)
Tiểu Sử Ngài Long Thọ
Tiểu Sử Ngài Long Thọ


Alexander Berzin

Tháng Hai, 2006   
  Lozang Ngodrub dịch; Chân Thông Tri hiệu đính

www.berzinarchives.com

 
Tiểu Sử Ngài Long Thọ


Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.

Long Thọ sanh ra trong một gia đình Bà la môn, có lẽ vào khoảng giữa thế kỷ thứ Nhất hay đầu thế kỷ thứ Nhì sau Công Nguyên, ở miền Nam Ấn Độ, tại Vidarbha, một vương quốc hiện nay nằm trong hai tiểu bang Maharashtra và Andhra Pradesh. Một số Kinh điển đã có lời tiên tri về ngài, chẳng hạn như Kinh Lăng Già (Lan-kar gshegs-pa’i mdo, Phạn ngữ Lankavatara Sutra). Lúc chào đời, một thầy bói tiên đoán rằng ngài chỉ sống được bảy ngày thôi, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường một trăm vị tăng thì ngài sẽ sống đến bảy tuổi. Vì lo cho mạng sống của con trai, vào năm ngài bảy tuổi, cha mẹ ngài đã gởi ngài đến Đại Học Phật Giáo Na-lan-đà (Nalanda Monastic University) ở miền Bắc Ấn Độ, nơi ngài đã gặp đại sư Saraha. Ngài Saraha nói rằng nếu Long Thọ từ bỏ thế tục và trì tụng mật chú Phật A Di Đà thì ngài sẽ sống lâu. Long Thọ làm theo lời khuyên, rồi gia nhập vào Tu Viện, nhận pháp danh “Shrimanta”.

Tại Na-lan-đà, Long Thọ tu học Mật điểnKinh điển với Ratnamati, một vị hóa thân của Đức Văn Thù Sư Lợi, và với đại sư Saraha, đặc biệt là pháp tu Mật điển Guhyasamaja (dPal gsang-ba ‘dus-pa’i rgyud). Ngoài ra, ngài còn học thuật giả kim (alchemy) với một vị Bà la môn và biết cách biến sắt thành vàng. Nhờ có khả năng này, ngài có thể nuôi chư Tăng Na-lan-đà trong nạn đói. Cuối cùng, ngài trở thành vị trụ trì của Na-lan-đà. Ở đó, ngài đã đuổi tám ngàn vị tăng không giữ gìn giới luật đúng đắn. Ngài cũng đánh bại năm trăm người ngoại đạo trong các cuộc tranh luận.

Hai vị thanh niên là hóa thân của các con trai của vua Thiên Long (naga king), đã đến Na-lan-đà. Thân họ phát ra mùi gỗ đàn hương tự nhiên. Long Thọ hỏi thăm sự tình và họ thú thật về thân thế của mình. Ngài bèn hỏi xin mùi gỗ đàn hương cho một pho tượng Tara và nhờ các Thiên Long giúp ngài xây dựng các ngôi chùa. Họ trở về cõi Thiên Long và hỏi ý kiến vua cha. Vua Thiên Long nói rằng ông có thể giúp ngài Long Thọ, với điều kiện ngài chịu đến long cung dưới biển để dạy cho họ. Long Thọ đồng ý, mang theo nhiều phẩm vật cúng dường và giảng dạy các Thiên Long.

Long Thọ biết các Thiên LongKinh Thiên Bách Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Shes-rab-kyi pha-rol-tu phyin-pa stong-pa brgya-pa, Phạn ngữ Shatasahasrika-prajnaparamita Sutra) và đã xin thỉnh một bổn. Khi Đức Phật giảng về Bát nhã Ba la mật (Trí tuệ Ba la mật), các Thiên Long đã mang một bổn Kinh này về long cung để bảo quản, chư Thiên mang một bổn khác và các Dạ Xoa thần Tài Lộc giữ một bổn khác. Long Thọ thỉnh bổn một trăm ngàn câu kệ, mặc dù các Thiên Long giữ lại hai chương cuối làm tin, để ngài Long Thọ phải trở lại long cung giảng dạy thêm cho họ. Sau đó, hai chương cuối đã được bổ sung thêm, cùng với hai chương cuối của Kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Shes-rab-kyi pha-rol-tu phyin-pa brgyad stong-pa, Phạn ngữ Ashtasahasrika-prajnaparamita Sutra). Đây là lý do hai chương cuối của hai bổn duyệt lại giống nhau. Long Thọ còn đem đất sét của cõi Thiên Long về để xây dựng nhiều ngôi chùa và bảo tháp.

Một lần nọ, khi ngài đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật thì sáu vị Thiên Long đã đến và xếp thành hình chiếc dù để che nắng cho ngài. Vì điều này mà hình tượng tiêu biểu của Long Thọ có sáu Thiên Long trên đầu của ngài. Từ sự kiện này, ngài có tên Naga (Thiên Long). Vì khả năng thuyết Pháp của ngài đi thẳng vào trọng điểm, như mũi tên của cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng trong Kinh điển Ấn Độ giáo, Bhagavad Gita), nên ngài có tên Arjuna. Do đó, ngài được gọi là “Nagarjuna”.

Sau này, Long Thọ du hành đến Bắc Đảo (Bắc Lục địa) để thuyết pháp. Trên đường đi, ngài gặp mấy đứa trẻ đang nô đùa trên đường phố. Ngài tiên đoán rằng một trong những đứa trẻ này, tên Jetaka, sẽ trở thành một vị vua. Khi ngài từ Bắc Đảo trở lại khu vực này, thằng bé đã lớn lên và trở thành Vua của một vương quốc lớn ở miền Nam Ấn Độ. Long Thọ đã ở lại với nhà vua trong ba năm, giảng dạy cho ông và sống những năm cuối đời ở một nơi khác trong vương quốc của ông, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng nhìn xuống thành phố Nagarjunakonda ngày nay. Long Thọ đã viết Bảo Hành Vương Chính Luận (Rin-chen ‘phreng-ba, Phạn ngữ Ratnavali) cho nhà vua. Đây cũng là nhà vua mà Long Thọ đã viết Bằng Hữu Thư để gởi tặng (bShes-pa’i spring-yig, Phạn ngữ Suhrllekha), đó là Vua Udayibhadra (bDe-spyod bzang-po).

Một số nhà học giả Tây phương xác nhận Vua Udayibhadra là Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì từ 106 – 130 sau Công Nguyên) của triều đại Shatavahana (230 trước Công Nguyên – 199 sau Công Nguyên), ở tiểu bang Andhra Pradesh ngày nay. Một vài học giả thì xác nhận ông là vị vua kế tiếp, Vua Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Công Nguyên). Khó mà nhận diện ra ông một cách chính xác. Những người của triều đại Shatavahana là các nhà bảo trợ cho bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật đã giảng dạy Mật điển Thời Luân (The Kalachakra Tantra) lần đầu tiên, và là nơi gần Shri Parvata.

Vua Udayibhadra có một đứa con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông nói rằng ông không thể làm vua cho đến khi nào Long Thọ qua đời, vì Long Thọ và nhà Vua có cùng thọ mạng. Mẹ ông bảo ông đi xin thủ cấp của Long Thọ, và vì là người rất từ bi, chắc chắn ngài sẽ đồng ý. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể chặt đầu của ngài bằng gươm. Long Thọ nói trong một tiền kiếp, ngài đã giết một con kiến trong khi cắt cỏ. Vì nghiệp quả này, chỉ có lá cỏ Kusha mới cắt đứt đầu của ngài. Kumara làm theo lời ngài và Long Thọ qua đời. Máu từ thủ cấp đã lìa khỏi thân ngài trở thành sữa và cái đầu của ngài nói, “Bây giờ, ta sẽ đến Tây Phương Cực Lạc (Sukhavati Pure Land), nhưng ta sẽ nhập vào thân này lần nữa.” Kumara đem chiếc đầu đi thật xa thân thể, nhưng người ta nói mỗi năm, chiếc đầu và thân ngài càng đến gần nhau hơn. Khi chúng sát nhập lại với nhau, ngài Long Thọ sẽ quay trở lại và giảng dạy lần nữa. Tổng cộng, ngài đã sống sáu trăm năm.

Một trong số nhiều bản Kinh luận mà Long Thọ đã viết là Bộ Sưu Tập Lý Luận (Rigs-pa’i tshogs), Bộ Sưu Tập Xưng Tán (bsTod-pa’i tshogs), và Bộ Sưu Tập Giải Thích Mô Phạm (gTam-pa’i tshogs).

Sáu Bộ Sưu Tập Lý Luận (Rigs-tshogs drug) là:

l Trung Quán Luận, (dBu-ma rtsa-ba shes-rab, Phạn ngữ Prajna-nama-mulamadhyamaka-karika)

 

l Bảo Hành Vương Chính Luận (Rin-chen ‘phreng-ba, Phạn ngữ Ratnavali)

 

l Hồi Tranh  Luận (rTsod-pa zlog-pa, Phạn ngữ Vigrahavyavarti)

 

l Thất Thập Tánh Không Luận (sTong-nyid bdun-bcu-pa, Phạn ngữ Shunyatasaptati)

l Kinh Quảng Phá Luận (Zhib-mo rnam-‘thag zhes-bya-ba’i mdo, Phạn ngữ Vaidalya-sutra-nama)

l Lục Thập Tụng Như Ý Luận (Rigs-pa drug-cu-pa, Phạn ngữ Yuktishashtika)

 

Một số tác phẩm trong Bộ Sưu Tập Xưng Tán của Long Thọ là:

l Tán Pháp Giới Tụng (Chos-dbyings bstod-pa, Phạn ngữ Dharmadhatu-stava)

l Tán Chân Đế Tụng (Don-dam-par bstod-pa, Phạn ngữ Paramartha-stava)

l Tán Xuất Thế Gian Tụng (‘ Jig-rten-las ‘das-par bstod-pa, Phạn ngữ Lokatita-stava)

 

Một số tác phẩm trong Bộ Sưu Tập Giải Thích Mô Phạm của Long Thọ là:

l Bồ Đề Tâm Luận (Byang-chub sems-kyi ‘grel-ba, Phạn ngữ Bodhicittavivarana)

l Kinh Tập Yếu (mDo kun-las btus-pa, Phạn ngữ Sutrasamuccaya)

l Bằng Hữu Thư (bShes-pa’i spring-yig, Phạn ngữ Suhrllekha)

 

Một vài luận giải về Mật điển Guhyasamaja cũng do ngài Long Thọ sáng tác gồm có:

l Nghi Quỹ Pindikrta (sGrub-thabs mdor-byas, Phạn ngữ Pindikrta-sadhana)

l Phương Pháp Thiền Quán Giai Đoạn Phát Khởi của Mật Điển Đại Du Già Guhyasamaja, Phối Hợp với Nguyên Văn (rNal-‘byor chen-po’i rgyud dpal gsang-ba ‘dus-pa’i bskyed-pa’i rim-pa’i bsgom-pa’I thabs mdo-dang bsres-pa, Mdo-bsres, Phạn ngữ Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

l Pancakrama (Năm Giai Đoạn (Giai Đoạn Viên Mãn)) (Rim-pa lnga-pa, Phạn ngữ Pancakrama)

Vị đệ tử lừng danh nhất của ngài Long ThọThánh Thiên (Aryadeva, ‘ Phags-pa lha), tác giả của Tứ Bách Kệ Tụng Bồ Tát Hạnh Du Già (Byang-chub sems-dpa’i rnal-‘byor spyod-pa bzhi-brgya-pa’i bstan-bcos kyi tshig-le’ur byas-pa, Phạn ngữ Bodhisattvayogacarya-catu:shatakashastra-karika), và một vài luận giải về Mật điển Guhyasamaja.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 182)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 184)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 309)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 651)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 660)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 775)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 751)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1053)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1276)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1088)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2372)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1764)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3467)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1585)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2528)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2309)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1951)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2911)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1978)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2343)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1763)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1654)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2388)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1466)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2780)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1821)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3739)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2072)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1926)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2462)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4418)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1870)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2780)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1603)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2498)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2593)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 1997)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3571)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3021)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1955)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1984)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2313)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2020)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1857)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2421)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2078)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2122)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2529)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3601)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2171)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3281)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2922)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5199)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2575)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3858)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5263)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3810)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2719)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2459)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2669)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant