Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú thích

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11241)
Chú thích

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank

Chú thích
1. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol gyi rdzogs rim bar do drug gi khrid yig, một gter ma của Đức Padmasambhava được Karma Lingpa phát hiện (Kar ma gling pa). Quyển 3 của sự xuất bản vòng Kar gling zhi khro từ thư viện của Dudjom Rinpoche (I – Tib – 1440, 75-903780). Một bản dịch khác của phần đầu tiên về tiêu đề Sự Hiện Lên Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Sự Nhận Biết Giác Ngộ. Trong lần phiên dịch thứ hai này, thuật ngữ zhi khro ám chỉ sadhana, dgongs pa đến nhận biết giác ngộ của tác giả và rang drol đến sự xuất hiện tự phát của bản văn từ nhận biết giác ngộ đó. 
2. Về cuộc đờiviệc làm của Đức Padmasambhava, hãy xem Đức Liên Hoa Sanh: Tiểu sử cuộc đời Đức Padmasambhava của Yeshe Tsogyal, Erik Pema Kunsang phiên dịch (Boston: Shambhala, 1993).
3. Với nhiều thông tin hơn về truyền thống kho tàng chôn dấu và phát hiện, hãy xem quyển Các Giáo Lý Chôn Dấu Của Tây Tạng: Một Giải Thích Về Truyền Thống Terma Của Phái Nyingma Của Phật Giáo, Tulku Thondup (Boston: Nhà Xuất bản Trí tuệ, 1997).
4. Bar do thos sgrol, hay nguyên nghĩa là Giải Thoát Qua Việc Nghe Trong Trạng Thái Trung Gian. Tác phẩm quan trọng này đã được dịch nhiều lần, gần đây nhất là của Robert A.F. Thurman, Tử Thư Tây Tạng, (New York: Bantam Books, 1994).
5. Khi thuật ngữ Tây Tạng bardo (nghĩa đen, “khoảng giữa”) đặc biệt ám chỉ đến giai đoạn sau khi chết và trước lúc tái sanh, người ta có thể dịch một cách thông dụng là “trạng thái trung gian”. Nhưng trong bối cảnh của sáu bardo, bao gồm tất cả samsara và nirvana, thuật ngữ “trạng thái trung gian” việc dịch cho chữ bardo không còn có ý nghĩa. Trong bối cảnh này, ý nghĩa của thuật ngữ bardo là chỉ mọi giai đoạn của lúc sống, thiền định, giấc mộng v.v... không ngoại lệ đều là sự chuyển tiếp. Mọi giai đoạn của cuộc sống và cái chết đều xảy ra giữa các trạng thái này. Tất cả chúng đều trong tiến trình. Để phản ánh khía cạnh này của thuật ngữ, tiến trình chuyển tiếp trong bối cảnh này đã được dịch là bardo.
6. Bar do’I nyams khrid dgongs pa rang grol gyi sngon ‘gro rang rgyud ‘dul byed lhan thabs.
7. gSang sngags rdo rje theg pa’i chos spyod thun bzhi’i rnal ‘byor sems nyid rang grol.
8. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol las bar do’i smon lam gsum.
9. Bar do’i smon lam thob tshad rang grol.
10. Bar do ‘phra sgrol gyi smon lam.
11. Bar do ‘jigs skyob pa’i smon lam.
12. Sangs rgyas và byang chub sems dpa’ la ra mda’ sbran pa’i smon lam.
13. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol gyhi gsol ‘debs sku gsum klong yangs rang grol.
14. sKu gsum bla ma’i rnal ‘byor gyi gsol ‘debs sku gsum klong yangs rang grol.
15. Tám mối quan tâm thế giantham luyến có được vật chất, khoái lạc tạm thời, được tán dương, và nổi tiếng; và ghét bị mất mát vật chất, khó chịu tạm thời, bị lăng mạ và mang tiếng xấu.
16. Mặc dù ba hiện thân Phật được nhắc đến ở trên, đều không có mâu thuẫn vì Nirmanakaya và Sambhogakaya chỉ là hai phân chia phụ của Rupakaya; Dharmakaya tương tự trong cả hai sắp xếp phân loại.
17. Tham luyến, sân hận, ảo tưởng, ghen tị, và kiêu mạn.
18. Sự thiền định về cuộc sống làm người có nhàn rỗithuận lợi là quý, về vô thường và cái chết, về đau khổ của chu trình sinh tử và về bản chất của hành động với hậu quả đúng quy cách của nó.
19. Chữ kiên trì trong Anh ngữ là tương đối yếu. Ở Tây Tạng, thuật ngữ ám chỉ sự hoan hỷ trong Giáo Phápđạo đức. Cũng thường được dịch là nồng nhiệt hay nhiệt thành kiên trì, nhưng nó thực sự là hoan hỷ và nhiệt thành cho thực hành Giáo Pháp.
20. “Dòng dõi tốt” ám chỉ có tiềm năng to lớn và cơ hội để thực hành Giáo Pháp.
21. Đó là sáu trạng thái của vòng sinh tử.
22. Tri kiến bản thể học bao gồm việc biết mọi sự như “chúng thực sự là” (ji ltar) và tri kiến hiện tượng học bao gồm việc biết sự vật “nhiều như nó là” (ji snyed).
23. “Đấng Chiến Thắng” (Phạn jina, Tạng rgyal ba) là một tên gọi của Đức Phật biểu thị Đức Phật hoàn toàn chiến thắng các trạng thái tâm thức tiêu cực bao gồm vô minh.
24. Tam giớidục giới, sắc giớivô sắc giới.
25. Thuật ngữ tiếng Phạn sugata là một chữ khác cho một vị Phật toàn giác.
26. Thuật ngữ tiếng Phạn arya (Tạng, ‘phags pa) ám chỉ các hành giả đã giác ngộ phi thiền định về chân lý tối thượng.
27. Theo Bod rgya tshig mdzod chen mo (Tse tan zhab drung. Dung kar blo bzang phrin las, và Dmu dge bsam gtan. Mi rigs dpe skrun khang, 1984, Quyển III, trang 2783, thuật ngữ Tây Tạng lu gu rgyud nghĩa đen có nghĩa sợi dây cột các con cừu cùng trong một hàng. Dường như được sử dụng ở đây như một ẩn dụ cho một bộ phận hay các chuỗi hợp thành nối kết với nhau. Ý nghĩa này phản ánh từ nguyên học của thuật ngữ, vì lu gu là phát âm khác của lug gu, có nghĩa “con cừu” [Ibid., trang 2781&2782]; và rgyud có nghĩa tiếp tục. Để đơn giản, tôi dịch lu gu ở đây như bộ phận.
28. Các vị bảo tồn-samaya là một bộ bảo vệ hay bảo hộ giúp duy trì samaya.
29. Một nguồn mà người đọc quan tâm ở đây có thể bắt đầu là quyển Học Phái Nyingma Của Phật Giáo Tây Tạng: Nền Tảng Và Lịch Sử (Boston: Nhà Xuất bản Trí tuệ, 1991) của Ngài Dudjom Rinpoche.
30. Bốn liên tục ở đây là bốn dòng tâm thức phiền não được tịnh hóa bằng phương tiện của bốn quán đảnh.
31. Thực hành nền tảng bao gồm việc lắng nghe, suy nghĩthiền định về Giáo Pháp.
32. Một tư thế đặc biệt của thân hay luyện tập được biết ở Tây Tạng như trul khor (‘phrul ‘khor).
33. Theo nghĩa đen là nhau bơm phồng.
34. Khi quán tưởng chữ trong tiếng Phạn hay Tây Tạng, visarga được quán tưởng là hai chấm (:) bên phải của chữ. Khi quán tưởng chữ trong tiếng Anh, visarga tiêu biểu cho chữ h với dấu chấm ở dưới.
35. Đây là một đồng nghĩa với Phật tánh và tathagatagarbha.
36. “Con mắt duy nhất, không gợn nhơ của trí tuệ bổn nguyên” là một nhóm chữ rút từ bản văn, bày tỏ danh hiệu của Đức Manjusri.
37. “Hoàn toàn trống rỗng” là trống rỗng của đoạn kiến, hoàn toàn không có gì.
38. Chữ “dấu hiệu” ám chỉ điều gì đó gần gũi vơi quan niệm phương Tây của chúng ta về việc xây dựng dựa trên khái niệm. Dharmakaya không đặt nền tảng trên bất cứ khuôn mẫu khái niệm nào hoặc xây dựng dựa trên khái niệm.
39. Trình bày này ngụ ý trí tuệ bổn nguyên của hành giả nhận thức mọi khía cạnh của thực tại một cách bình đẳng.
40. Năm dấu hiệu của thân là năm nguyên tố đất, nước, v.v...
41. “Sự thêm vào” là sự quy vào thực tại về điều gì đó không có ở đó, trong lúc chối bỏ sự phản bác của hiện hữu về điều gì đó có ở đó.
42. Khẳng định này không được nhầm lẫn với khái niệm hữu thần của một đấng sáng tạo bên ngoài, hoặc chúa tể của vũ trụ, vì nhận biết này là bản tánh của toàn bộ samsara và nirvana.
43. Đây là một vấn đề của sự cố gắng quá sức, thực hành thật mãnh liệt khiến chính nhận thức của trạng thái mộng xảy ra khỏi giấc ngủ.
44. Điều này ám chỉ cả hai huyễn thân thanh tịnhbất tịnh.
45. Đó là, sự tính toán của chiêm tinh học không thích hợp với thực hành này; nó được theo sau vào mọi lúc.
46. Bản tánh tưởng tượng được phóng chiếu, nhưng bản tánh chính nó là sự nguyên thủy.
47. Lỗ mở của sự trở thành là lỗ mở cho chất dịch tái sanh của nam và nữ.
48. Trong thực hành như đã dạy ở đây, bạn nói “HIG-KA” cho toàn bộ tiến trình kéo bindu lên trên và đưa nó xuống dưới. Nhưng theo một số truyền thống khác, bạn nói “HIG-HIG-HIG-HIG” khi kéo bindu lên và sau đó nói “KA” khi để nó đi xuống.
49. “Tụ hội trong cuộc sống” ngụ ý đem cuộc sống bạn đến kết thúc một khi dấu hiệu hiển nhiên của cái chết đến gần và bạn đã xác định rằng không thể ngăn được cái chết.
50. “Các đối tượng đặc biệt cho việc tích lũy công đức,” là lãnh vực công đức như việc chọn bổn tôn, tất cả đối tượng quy ysùng kính.
51. Thuật ngữ yaksa bao gồm nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhưng ở đây có thể ám chỉ asura hay người khổng lồ có thể giúp đỡ hay ngăn cản những chúng sanh khác. Yaksa cũng là tên của một loại chúng sanhtài sản, và thuật ngữ Tây Tạng tương đương cũng ám chỉ một loại súc vật đặc biệt.
52. Điều này nhắc đến Đức Avalokiteshvara hoặc bất cứ đối tượng niềm tin nào của người sắp chết.
53. “Các lỗ mở” ám chỉ hai mắt.
54. Citta ở đây có nghĩa trái tim.
55. Nói chung, đó là nếu bạn đạt đến giai đoạn này của thực hành, bạn sẽ không phải kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Hoặc thậm chí nếu bạn thực sự kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp này, bạn sẽ nhận ra bản tánh của nó và đạt được tỉnh giác lập tức.
56. Điều này ám chỉ người đã rèn luyện thành thạo trong giai đoạn phát triểnhoàn thiện.
57. Chúng sanh có thể so sánh là người có điều gì đó chung với chính mình trong tiến trình chuyển tiếp.
58. Đó là ba mươi hai dấu hiệu và tám mươi biểu tượng đôi khi được gọi là các dấu ấn chính và phụ của một vị Phật.
59. Điều này ám chỉ khả năng nhận ra giáo lý Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
60. Trong bối cảnh này, nơi hoang dã là nơi bạn hoàn toàn đơn độc, không bạn bè, người đồng hành, hoặc sự hỗ trợ.
61. Lãnh vực của sự rộng mở bao la phi tạo tác ám chỉ tính phi hiện hữu về đối tượng của bài nguyện này, của tác nhân bài nguyện và hành động cầu nguyện. Nó không phải hoàn toàn không hiện hữu; đúng hơn tất cả chúng đều là bản tánh của sự nhận biết.
62. Chủ nhân của ba gia đình là Vajrapani, Avalokiteshvara và Manjusri.
63. Sáu vị Đại Uyên Bác là sáu bậc giác ngộ, mỗi vị xuất hiện trong một của sáu trạng thái luân hồi sinh tử. Ví dụ, Đức Phật Sakyamuni là bậc Đại Uyên Bác của cõi người, và có những vị khác cho asura, deva, v.v...
64. Thuật ngữ này có nghĩa không thể tiên đoán, nói khác đi, nó không theo một số khuôn mẫu hay trật tự được xác định trước.
65. Nơi này được định vị trong cõi tịnh độ Sukhavati của Phật Amitabha.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 362)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 357)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 447)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 804)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 813)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 923)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 879)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1171)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1399)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1180)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2489)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1886)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3586)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1708)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2646)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2413)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2073)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 3029)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2128)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2444)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1888)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1775)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2511)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1573)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2881)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1933)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3865)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2181)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 2021)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2571)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4557)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1988)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2879)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1706)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2599)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2688)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2092)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3680)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3132)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2077)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2123)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2434)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2125)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1972)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2512)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2191)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2222)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2636)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3698)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2289)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3384)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3065)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5339)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2688)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3953)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5376)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3918)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2847)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2565)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2781)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant