Tổ Đình Minh Đăng Quang
PHẬT HỌC TỪ ĐIỂN - BUDDHIST DICTIONARY
VIETNAMESE - ENGLISH VIỆT - ANH
Thiện Phúc
Nh
Nha:
1) Văn phòng: Bureau—Service.
2) Răng: Tooth—Teeth.
Nha
Bồ Tát: Kim Cang Dược Xoa—Một vị Bồ Tát
hay nhe răng lởm chởm ra để bảo vệ Phật; thường thì vị nầy ở bên đông độ của
Kim Cang Giới—The Bodhisattva fiercely shoowing his teeth in defence of the
Buddha; hie is in the east of the Buddha in the Vajradhatu.
Nhá
Nhem: At dusk—At nightfall.
Nhà
Dòng: Monastery.
Nhà
Đạo Đức: Moralist.
Nhà
Giáo: Teacher.
Nhà
Khách: Guest (reception)-room.
Nhà
Làm Luật: Law-maker.
Nhà
Lửa Tam Giới: Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì
Phật ví Tam giới như nhà lửa, không yên, đầy dẫy sự khổ, rất đáng sợ
hãi—According to the Wonder Lotus Sutra, the Buddha compared the three realms
as a burning house; sentient beings in these realms are not stable, indeed,
they are continuously suffering and frightening.
Nhà
Mô Phạm: See Nhà giáo.
Nhà
Sinh Lý Học: Physiologist.
Nhà
Sư: Buddhist monk.
Nhà
Tai Mắt: A very important person.
Nhà
Tâm Lý Học: Psychologist.
Nhà
Tôn Giáo: Religionist.
Nhà
Trí Thức: Intellectual—Scholar.
Nhà
Truyền Giáo Phật Giáo: Buddhist missionaries.
Nhà
Tu: Convent (Catholic).
Nhà
Tu Hành: Religious monk/priest.
Nhà
Tu Khổ Hạnh: Recluse—Asectic.
Nhà
Sư Khổ Hạnh Lang Thang Không Một Xu Dính Túi:
A penniless wandering asectic.
Nhà
Viết Sử: Historian.
Nhà
Xã Hội Học: Sociologist.
Nhả: To spit out.
Nhã: Tao nhã—Polite.
Nhã
Đề Tử: Jnatiputra (skt)—Ni Kiền Nhã Đề
Tử, một trong sáu vị sư ngoại đạo Ấn Độ trong thời Đức Phật còn tại
thế—Nirgranthajnati, one of the six heterodox teachers in India at the time of
the Buddha.
** For more information, please see Lục Sư
Nhã
Na: Jnana (skt),
1) Trí, so với “huệ”—Knowledge—Understanding—Intellectual
judgments, as compared with “wisdom”, or moral judgments.
2) Nhã Na còn có nghĩa bao trùm
cả “trí” lẫn “huệ”—Jnana is supposed to cover both “knowledge” and
“wisdom.”
Nhã
Nhặn: Gallant—Courteous.
Nhã
Ý: Amiability.
Nhạc:
1) Âm nhạc: Làm cho giải khuây—Music, that which causes joy.
2) In-law (father or mother).
Nhạc
Âm:
1) Âm thanh của tiếng nhạc: The sound of music.
2) See Mạt Nô Thị Nhã Táp Phược La (1).
Nhạc
Âm Thụ: Gió nhẹ thổi vào là cây trên cõi
nước của Đức Phật A Di Đà làm phát ra những âm thanh như tiếng nhạc—The trees
in Amitabha’s paradise which give forth music to the breeze.
Nhạc
Càn Thác Bà: The Gandharvas, Indra’s
musicians—See Gandharva in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Nhạc
Hội: Concert.
Nhạc
Sư: Music teacher.
Nhạc
Thiên: Deva musicians—See Gandharva in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Nhạc
Thụ: Khi thọ lãnh thuận cảnh thì thân
tâm vui vẻ—The sensation, or perception of pleasure.
Nhạc
Trời: Heavenly music.
Nhai:
1) Con đường hay phố thị: A street, especially with shops, a
market.
2) Nhai thức ăn: To chew—To ruminate.
Nhai
Phương: Phố thị bận rộn của cuộc sống—The
busy mart of life.
Nham: Ghềnh đá—A cliff.
Nham
Đầu Thiền Sư: Zen Master Yan-T’ou—See Toàn Khoát
Nham Đầu Thiền Sư.
Nham
Đầu Toàn Khoát: Zen Master Yan-T’ou—See Toàn Khoát
Nham Đầu Thiền Sư.
Nham
Hiểm: High and dangerous.
Nhàm
Chán: To detest.
Nhám: Rough—Uneven—Harsh.
Nhảm
Nhí: Nonsense.
Nhan: Dung nhan—Counternance—Appearance.
Nhan
Nhản: Abundant—Numerous.
Nhan
Sắc: Beauty.
Nhàn: Idle.
Nhàn
Bộ: To go for a walk.
Nhàn
Cư: To be idle.
Nhàn
Cư Thập Đức: See Nhàn Cư Thập Thiện.
Nhàn
Cư Thập Thiện: Mười lợi ích thiện lành của cuộc
sống ẩn dật, trong đó thiếu vắng những hành động sau đây—Ten wholesome
advantages of a hermitage which are absent of the following actions:
1) Không ham bóng sắc dục vọng: Không có cảnh nam nữ, tức không
có lòng ham muốn—Absence of sex and passion.
2) Không nói điều tà vạy: Không có nhơn duyên gây ra lời ăn
tiếng nói lộn xộn, tức không có việc bày điều đặt chuyện láo xược—Absence of
temptation to say wrong things.
3) Không có kẻ thù: Không có kẻ đối địch—Absence of enemies,
and so of strife.
4) Không xung đột với ai: Không sợ việc tranh giành—Absence of
conflicts.
5) Không có bằng hữu khen chê: Không có bạn nói chuyện thị phi,
tức không có việc khen chê—Absence of friends to praise or blame.
6) Không có ai để cho mình bươi móc lỗi lầm của họ: Không thấy
kẻ lỗi lầm—Absence of other people for us to pick their faults.
7) Không có ai để chúng ta nói chuyện về họ: Không có việc đàm
luận việc quấy của người khác—Absence of people for us to talk about them.
8) Không bạn bè, không đệ tử, không kẻ hầu người hạ cho chúng
ta vui chơi, dạy dỗ hay sai bảo (không gây tội tạo nghiệp): Absence of friends
for us to play with; absence of disciples for us to teach, absence of servants
for to us ask for running errands (no further creating of karma).
9) Không ao ước có bạn đồng hành: No longing for companions.
10) Không có những phiền phức gây nên bởi xã hội như khách khứa,
lịch sự, quần áo chỉnh tề, cũng như giao tế xã hội: Absence of troubles caused
by society such as guests, politeness, neat clothes, as well as social
relations.
Nhàn
Cư Vi Bất Thiện: Idleness is the root of all evils
(Satan finds some mischief for idle hands to do).
Nhàn
Đàm Hí Luận: Prapanca (skt)—Idle talk/chat—Vain
talk or diffusive trivial reasoning.
Nhàn
Đạo Nhân: Hành giả hay người đã thuần thục
về tôn giáo—A practitioner, one well-trained in the religion.
Nhàn
Hạ: Unoccupied—Free—Idle.
Nhàn
Lãm: To see at leisure.
Nhàn
Rỗi: Leisure life—Leisure time.
Nhàn
Sướng: Easy and happy.
Nhàn
Tọa: To sit idly.
Nhàn
Trần Cảnh: Lời nói không còn cần thiết—Words,
or expressions to be shut off; unnecessary words.
Nhàn
Xứ:
1) Chốn A Luyện Nhã: A hermitage.
2) Nơi nhàn tĩnh: A shut-in place, a place of peace.
3) Tự viện: A Buddhist monastery.
Nhãn: Caksuh (skt)—The eye—See Caksus in
Sanskrit/Pali-Vietnamese Section.
Nhãn
Căn: Một trong lục căn—One of the six
senses, the organ of sight—See Lục Căn.
Nhãn
Giới: Caksurdhatu (skt)—Field of vision,
or the eye-realm, or sight faculty; the element or realm of sight—See Nhãn Căn.
Nhãn
Lực: Eyesight.
Nhãn
Mục: The eyes.
Nhãn
Nhập: Một trong thập nhị nhập—One of the
twelve entrances, the eye entrance, the basis of sight consciousness—See Thập
Nhị Nhập.
Nhãn
Thức: Cakshurvijnana (skt)—The sense of
vision—Nhiệm vụ của nhãn thức là nhận biết hình dáng. Không có nhãn
thức, chúng ta sẽ không nhìn thấy gì cả; tuy nhiên nhãn thức lại tùy thuộc vào
nhãn căn. Khi nhãn căn gặp một hình dạng thì nhãn thức liền phát sanh. Nếu Nhãn
căn không gặp hình dáng thì nhãn thức không bao giờ phát sinh (một người bị mù
không có nhãn căn, như vậy nhãn thức không bao giờ phát sinh). Người tu tập nên
luôn thấu triệt điểm tối yếu nầy để thực tập sao cho hạn chế nhãn căn tiếp xúc
với hình sắc, để làm giảm thiểu sự khởi dậy của nhãn thức. Phật nhắc nhở chúng
đệ tử của Ngài rằng, phương pháp duy nhất để giảm thiểu sự khởi dậy của nhãn
thức là thiền định—Eye Consciousness—Sight consciousness—Sight-preception, the
first vijnana—The function of the eye consciousness is to perceive and apprehend
visual forms. Without the eye consciousness we could not behold any visual
form; however, the eye consciousness depends on the eye faculty. When the
eye faculty and any form meet, the eye consciousness develops instantly. If the
eye faculty and the form never meet, eye consciousness will never arise (a
blind person who lacks the eye faculty, thus eye consciousness can never
develop). Buddhist cultivators should always understand thoroughly this
vital point to minimize the meeting between eye faculty and visual forms, so
that no or very limited eye consciousness will ever arise. The Buddha
reminded his disciples that meditation is the only means to limit or stop the
arising of the eye consciousness .
Nhãn
Thức Giới: Caksur-vijnana-dhatu (skt)—The
element or realm of sight-perception—See Nhãn Thức.
Nhãn
Tiền: Right in this life—Before the eye.
Nhãn
Trí: Trí hiểu biết qua nhãn
thức—Knowledge obtained from seeing.
Nhang
Đèn: Incense and lamp.
Nhãng: Forget—To be absent-minded.
Nhãng
Tai: To be hard of hearing.
Nhãng
Trí: To be absent-minded.
Nhanh: Quick—Fast—Rapid.
Nhanh
Mắt: Quick-sighted.
Nhanh
Tay: Quick-handed.
Nhanh
Trí: Quick-witted (minded).
Nhánh: Branch—Bough.
Nháo
Nhác: Frightened.
Nhào: To dive—To rush.
Nhạo: To laugh at—To mock.
Nhạo
Báng: See Nhạo.
Nhát: To frighten.
Nhau: Together.
Nhàu: Creasy—Tumbled.
Nháy: To blink (eyes)—To wink.
Nhảy: To jump—To leap.
Nhảy
Nhót: To jump about.
Nhạy
Cảm: Sensitivity.
Nhắc
Nhở Thế Gian: To remind the mankind.
Nhắm: To shut—To close (eyes).
Nhắm
Nghiền: To close tightly.
Nhắm
Trúng Đích: To take a true (an accurate) aim.
Nhằm: To fall on.
Nhằm
Lúc: At the very moment.
Nhăn: Wrinkled—Creasy.
Nhắn: To send words through someone.
Nhẵn: Completely—Totally.
Nhẵn
Bóng: Smooth and shining.
Nhâm: Dệt—To weave.
Nhâm
Bà: Nimba (skt)—Cây nhâm bà, có trái
nhỏ và đắng như trái khổ qua; người Ấn nhai lá cây nầy trong tang lễ—The neemb
tree, which has a small bitter fruit; its leaves in India are chewed at funeral
ceremonies.
Nhân:
1) Hetu (skt): Nguyên nhân—Cause—Reason—Nguyên nhân hay cái đi
ở trước; điều kiện, lý do, nguyên lý.—Cause, antecedent, condition; reason,
principle.
2) Nhân từ: Kindness.
3) Manusya (skt)—Man—Chúng sanh con người có suy tưởng trong
dục giới, những nghiệp trong quá khứ ảnh hưởng đến hoàn cảnh hiện tại. Con
người chiếm một vị trí rất quan trọng trong vũ trụ của Phật giáo, vì con người
có quyền năng quyết định cho chính họ. Đời sống con người là sự hỗn hợp của
hạnh phúc và đắng cay. Theo Đức Phật, con người có thể quyết định dành cuộc đời
cho những mục tiêu ích kỷ, bất thiện, một hiện hữu suông rỗng, hay quyết định
dành đời mình cho việc thực hiện các việc thiện làm cho người khác được hạnh
phúc. Trong nhiều trường hợp, con người cũng có thể có những quyết định sinh
động để uốn nắn đời mình theo cách nầy hay cách khác; con người có cơ hội nghĩ
đến đạo và giáo lý của Ngài hầu hết là nhằm cho con người, vì con người có khả
năng hiểu biết, thực hành và đi đến chứng ngộ giáo lý. Chính con người, nếu
muốn, họ có thể chứng nghiệm giác ngộ tối thượng và trở thành Phật, đây là hạnh
phúc lớn không phải chỉ chứng đắc sự an tịnh và giải thoát cho mình, mà còn
khai thị đạo cho nhiều người khác do lòng từ bi—The sentient thinking being in
the desire realm, whose past deeds affect his present condition. Man occupies a
very important place in the Buddhist cosmos because he has the power of
decision. Human life is a mixture of the happy with a good dash of the bitter.
According to the Buddha, a man can decide to devote himself to selfish,
unskilful ends, a mere existence, or to give purpose to his life by the
practice of skilful deeds which will make others and himself happy. Still, in
many cases, man can make the vital decision to shape his life in this way or
that; a man can think about the Way, and it was to man that the Buddha gave
most of his important teachings, for men could understand, practice and realize
the Way. It is man who can experience, if he wishes, Enlightenment and become
as the Buddha and the Arahants, this is the greatest blessing, for not only the
secure tranquillity of one person’s salvation is gained but out of compassion
the Way is shown in many others.
4) Cơ hội được tái sanh làm con người rất ư là hãn hữu, chính
vì thế mà Đức Phật dạy: “Được sinh ra làm người là điều vô cùng quý báu, một cơ
hội lớn lao không nên để uổng phí. Giả tỷ có một người ném vào đại dương một
mảnh ván, trên mảnh ván có một lỗ hỏng, mảnh ván trôi dạt do nhiều luồng gió và
nhiều dòng nước xô đẩy trên đại dương. Trong đại dương có một con rùa chột mắt,
một trăm năm mới ngoi lên mặt biển một lần để thở. Dù cho mất cả một đại kiếp,
con rùa cũng khó mà trồi lên mặt nước và chui vào lỗ hỏng của mảnh ván ấy. Cũng
thế, nếu một khi người ta đã bị đọa xuống ba cảnh giới đầy thống khổ hay hạ tam
đồ, thì việc được tái sanh làm người cũng thật là hiếm hoi.”—The opportunity to
be reborn as a human being is so rare; thus the Buddha taught: “Supposing a man
threw into the ocean a piece of wood with a hole in it and it was then blown
about by the various winds and currents over the waters. In the ocean lived a
one-eyed turtle which had to surface once in a hundred years to breathe. Even
in one Great Aeon it would be most unlikely in surfacing, to put its head into
the hole in that piece of wood. Such is the rarity of gaining birth among human
beings if once one has sunk into the three woeful levels or three lower
realms.”
Nhân
Ái: Kindness of
heart—Charity—Benevolence.
Nhân
Bản: Humanism.
Nhân
Bảo: Phật là kho bảo của loài người—
Buddha is the treasure of men.
Nhân
Chấp: See Ngã Chấp.
Nhân
Chủng: Human race.
Nhân
Danh: On behalf of—In the name of.
Nhân
Dị Phẩm: Hetu-virudha (skt)—In a syllogism
the example not accordant with the reason.
Nhân
Dịp: On the occasion of.
Nhân
Dục: Human desire.
Nhân
Dũng: Humanity and courage.
Nhân
Dũng Bảo Ninh: See Bảo Ninh Nhân Dũng.
Nhân
Duyên: Hetu-pratyaya (skt)—Dependent
Origination—Causes and conditions—Những nhân ảnh hưởng đến việc tái sanh trở
lại cõi người—The causative influences for being reborn as a human beings:
1) Nhân: Hetu (skt)—A primary cause—A root-cause.
2) Duyên: Pratyaya (skt)—An environmental or secondary cause.
** A seed is a primary cause (hetu); rain, dew, farmer, etc, are the environmental
or secondary cause (pratyaya).
Nhân
Duyên Cộng Tập Hội:
1) Sự nối kết của các chuỗi nhân duyên—A concatenation of
causal chains.
2) Đức Phật dạy: “Do sự nối kết của các chuỗi nhân duyên mà có
sự sinh, có sự diệt—The Buddha taught: “Because of a concatenation of causal
chains there is birth, there is disappearance.”
Nhân
Duyên Quán: Quán sát về nhân duyên—Meditation
on nidanas.
Nhân
Duyên Sanh: Causally-produced.
Nhân
Duyên Sanh Pháp: Pháp khởi lên từ những nhân trực
tiếp hay gián tiếp—Real entities that arise from direct or indirect causes.
Nhân
Duyên Y: Mọi pháp đều dựa vào chủng tử của
mình mà sinh khởi (ba loại sở y là nhân duyên y, tăng thượng duyên y và đẳng vô
gián y)—Dependent on cause, or the cause or causes on which anything depends.
Nhân
Dược Vương Tử: Đức Phật Thích Ca trong một tiền
kiếp, người mà chúng ta chỉ cần chạm vào là đã có thể trị được bá
bệnh—Human-touch healing prince—Sakyamuni in a previous incarnation, whose
touch healed all diseases.
Nhân
Đà La: Indra (skt)—Thích Đề Hoàn
Nhân—Thiên Đế—Thiên Chủ Đế—Trời Đế Thích—Nhân Đề Lê—Nhân Đề—Nhân Đạt Nhân Đạt
La—Nguyên thủy là thần sấm sét hay mưa, biểu hiệu của Kim Cang Thủ, trở thành
Thiên chủ của Đông Độ, chỉ sau có Phạm Thiên—Visnu và Siva—A god of the
atmosphere, i.e. of thunder and rain; his symbol is the vajra or thunderbolt;
he became “lord of the gods of the sky,” “region of the east quarter,”
popularly chief after Brahma, Visnu, and Siva.
Nhân
Đà La Bà Tha Na: Indravadana or Indrabhavana
(skt)—Tên của trời Đế Thích—Name for Indra.
Nhân
Đà La Đạt Bà Môn Phật: Indradhvaja (skt)—Trong một tiền
kiếp Đức Phật tái sanh làm con trai thứ bảy của Đức Phật Đại Thông Trí Thắng—A
Buddha’s incarnation of the seventh son of the Buddha Mahabhijnabhibhu.
Nhân
Đà La Ni La Mục Tử: Indranila-Mukta (skt)—Viên ngọc
bích của trời Đế Thích—Indra’s blue or green stone, which suggests an emerald,
Indranilaka.
a) Indranila (skt): Ngọc bích—A sapphire.
b) Mukta (skt): Ngọc châu—A pearl.
Nhân
Đà La Thế La Cầu Ha: Indrasailaguha (skt).
1) Hang động của Đế Thích—Indra’s cave.
2) Xà Thần Sơn: The mountain of the snake god
3) Tiểu Cô Thạch Sơn: Núi của những đỉnh cô lập nhỏ gần tu viện
Nalanda, đỉnh phía tây là một hang núi rộng, nhưng không cao, nơi mà về phía
nam của hang đá nầy Đức Thế Tôn thường hay thăm viếng. Người ta nói trời Đế
Thích đã hỏi Tứ Thập Nhị Chương và Đức Phật cũng trả lời đầy đủ tại đây—The
mountain of small isolated peaks located near Nalanda, where on the south crag
of the west peak is a rock cave, board but not high, which Sakyamuni frequently
visited. Indra is said to have forty-two questions on stone, to which the
Buddha rpplied.
Nhân
Đà La Thệ Đa: Indraceta (skt)—Thị giả của trời
Đế Thích—Indra’s attendants.
Nhân
Đà La Võng: See Bảo Võng.
Nhân
Đạo:
1) Lòng nhân đạo: Humanity—to treat people with humanity.
2) Nhân thừa: The human stage of the gati or states of
existence—See Nhân Thừa.
3) Con đường hay nguyên tắc của nhân: The way or principle or
causation.
Nhân
Đạt Đà La Đại Tướng: Trời Đế Thích như một vị đại tướng
giữ tháp Phật Dược Vương—Indra as General who guards the shrine of Bhaisajya.
Nhân
Địa: Trạng thái thực tập giáo lý nhà
Phật dẫn tới quả vị Phật—Fundamental cause or causal ground—The state of
practicing the Buddha religion which leads to the resulting Buddhahood (quả
địa).
Nhân
Định: Thời gian từ 9 đến 11 giờ đêm,
khoảng thời gian mà con người an định cho cả đêm—The third beat of the first
watch from 9:00 PM to 11:00 PM when men are settled for the night..
Nhân
Đồng Phẩm: Of the same order as the reason.
Nhân
Đức: Benevolent character.
Nhân
Già Lam: Narasam-gharama (skt)—Một ngôi già
lam (chùa) cổ gần kinh đô Ca Tỳ La Vệ—An ancient monastery close to the capital
of Kapisa.
Nhân
Gian: In this world.
Nhân
Hành Quả: Ba thứ nhân, hành, và quả (hạt
giống, sự nẩy mầm, và trái)—Cause, action, and effect (seed, germination, and
fruit).
Nhân
Hậu: Kindness.
Nhân
Hòa: Human harmony.
Nhân
Hùng Sư Tử: See Nhân Trung Sư Tử in
Vietnamese-English Section.
Nhân
Hữu: Sự hiện hữu của con người—Human
bhava or existence.
Nhân
Kết Thứ: Manusa-krtya (skt)—Loại quỷ có
hình thù giống như loài người—Demons shaped like men.
Nhân
Không: Con người chỉ là một phối hợp tạm
thời bởi ngũ uẩn, lục đại (đất, nước, lửa, gió, hư không và tâm thức), và 12
nhân duyên, chứ không có thực ngã hay một linh hồn trường tồn—Impersonality—Man
is only a temporary combination formed by the five skandhas, the six elements
(earth, water, fire, air, space and mind), and the twelve nidanas, being the product
of previous cause, and without a real self or permanent soul.
Nhân
Không Quán: Quán sát hay thiền quán về những
điều kiện giả tạm của con người—To contemplate or meditate on the temporary
conditions of man.
Nhân
La Na: Airavana (skt)—Ế La Diệp—Nhân Na
Bà Na—Y La Bà Nô—Y La Bát Đa La—Y La Bát Na—Y Lan.
1) Vua của loài voi: A king of the elephants.
2) Tên một con voi của vua trời Đế Thích: Indra’s white
elephants.
3) Tên một loài cỏ: Name of a certain tree or herb.
4) Tên của một vị long vương: Name of a naga.
Nhân
Loại: Humanity.
Nhân
Loại Khổ Đau Và Cuồng Loạn:
Suffering and distracted humanity.
Nhân
Lúc: Just as—When.
Nhân
Lực: Đối lại với duyên lực. Đây là
nguyên nhân chính sinh ra sự vật—The causal force, as contrasted with
environmental or secondary force (duyên lực).
Nhân
Ma Sa: See Nhân Mãng Sa.
Nhân
Mạn Đà La: Mạn Đà La của Thai tạng giới, về
phía đông; đối lại với Kim Cang Tạng Mạn Đà La, về phía tây trong Mạn Đà La—The
Garbhadhatu mandala, which is east; in contrast with Vajradhatu mandala, which
is west (quả mạn đà la).
Nhân
Mãng Sa: Da thịt—Human mamsa or flesh.
Nhân
Minh: Hetuvidya (skt)—Tiếng Phạn là
Hetuvidya, thuộc về khoa lý luận học, lập ra pháp ba chi (tông, nhân và dụ)—The
logically reasoning of a cause—The science of cause or logical reasoning or
logic with its syllogistic method of the proposition, the reason, the
example.
a) Tông: The method of proposition.
b) Nhân: The method of reason.
c) Dụ The method of example.
** For more information, please see Pháp Tự
Nhân
Minh Chánh Lý Môn Luận:
Nyaya-dvaratarka-sastra (skt)—Bộ luận về lý luận học được Ngài Trần Na biên
soạn và ngài Nghĩa Tịnh dịch sang Hoa Ngữ vào thời nhà Đường—A treatise
composed by Dignaga, translated into Chinese by I-Ching during the T’ang
dynasty.
Nhân
Minh Luận: Hetuvidya-sastra (skt)—Một trong
Ngũ Minh Luận, lý luận về bản chất của sự thật và sự sai lầm—One of the
Pancavidya-sastra, a treatise explaining causality, or the nature of truth and
error.
Nhân
Minh Nhập Chánh Lý Luận:
Nyaya-pravesa (skt)—Thuyết minh về lý luận (chân năng lập, chân năng phá, chân
hiện lượng, chân tỷ lượng, tự năng lập, tự năng phá, tự hiện lượng, tự tỷ
lượng) do đệ tử của Trần Na là Thương Yết La soạn, Trần Huyền Trang đời Đường
dịch sang Hoa Ngữ, một quyển bao gồm những lời bình—A treatise on logic
composed by Sankarasvamin, follower of Dignaga, translated into Chinese by
Hsuan-Tsang in one book, on which there are numerous commentaries and works.
Nhân
Năng Biến: Sự tự chuyển biến từ nhân sang
quả—A cause that is also an effect—The power in a cause to transform itself
into an effect.
Nhân
Ngã: Personality—The human soul.
Nhân
Ngã Kiến: Tà kiến cho rằng có một cái ngã
độc lập và thường hằng—The eroneous (false) view that there is an independent
and permanent human personality or soul (that every man has a permanent lord
within).
Nhân
Nghĩa: Love and righteousness—Charity and
justice.
Nhân
Nghiệp: Sự hoạt động của nhân—Sự hoạt động
phối hợp trực tiếp hay gián tiếp của nhân chính hay nhân phụ (nhân tức là lực
đích thân sinh ra quả, nghiệp là sở tác trợ duyên sinh quả; hai thứ nầy hòa hợp
với nhau mà sanh ra vạn pháp)—The work or operation of causes—The co-operation
of direct and indirect causes, of primary and environmental causes.
Nhân
Nguyên: Cause—Cause and origin.
Nhân
Nhân: Những đệ tử Phật chưa đạt được
Phật quả mà vẫn còn tạo nghiệp và lăn trôi trong luân hồi sanh tử—Followers of
Buddha who have not yet attained Buddhahood, but are still producers of karma
and reincarnation.
Nhân
Nhân Bổn Cụ: Mọi người đều có Phật tánh—Every
man has by origin the perfect Buddha-nature.
Nhân
Nhượng: To make concessions.
Nhân
Nội Nhị Minh: Nhân Minh và Nội Minh—Reason and
authority—See Ngũ Minh.
Nhân
Pháp:
(A) Con người và vạn hữu: Men and things.
(B) Con người và Phật pháp hay giáo pháp của Phật: Men and the
Buddha’s law or Buddha’s teaching.
Nhân
Pháp Vô Ngã: Pudgaladharma (skt)—Sự vô ngã hay
không có linh hồn cá nhân lẫn các sự vật bên ngoài—The egolessness of both the
individual soul and external objects.
Nhân
Phẩm: Human dignity.
Nhân
Phẩm Của Chính Mình: Self-respect.
Nhân
Phần: Nhân phần đối lại với quả
phần—Cause as contrasted with effect.
Nhân
Phần Khả Thuyết, Quả Phần Bất Khả Thuyết:
Nhân phần đưa đến quả vị Phật của Phật có giảng thuyết được, nhưng tính hải mà
Phật chứng ngộ là pháp của Phật tự biết, chẳng thể dùng ngôn từ mà diễn đạt—The
causes that give rise to the Buddha’s Buddhahood may be stated, that is, such
part as is humanly manifested; but the full result is beyond description.
Nhân
Phi Nhân: Kinnara—Một chúng sanh giống như
con người, Một loại chúng sanh có dáng vẻ như người nhưng lại có các bộ phận
trong cơ thể của loài thú, một nhạc sĩ huyền thoại của cõi trời, có đầu ngựa
với một sừng, và thân hình giống như hình người. Con nam thì ca còn con nữ thì
múa—Non-Human Angels—A being resembling but not a human being. A being having
the appearance of humans but possessing parts of animals. A kind of mythical
celestial musician. It has a horse-like head with one horn, and a body like
that of human. The males sing and the females dance.
Nhân
Quả:
1) Nhân là nguyên nhân, là năng lực phát động; quả là kết quả,
là sự hình thành của năng lực phát động. Định luật nhân quả chi phối vạn sự vạn
vật trong vũ trụ không có ngoại lệ: Cause is a primary force that produces an
effect; effect is a result of that primary force. The law of causation governs
everything in the universe without exception.
2) Luật nhân quả hay sự tương quan giữa nguyên nhân và kết quả
trong luật về “Nghiệp” của Phật giáo. Mọi hành động là nhân sẽ có kết quả hay
hậu quả của nó. Giống như vậy, mọi hậu quả đều có nhân của nó. Luật nhân quả là
luật căn bản trong Phật giáo chi phối mọi hoàn cảnh. Luật ấy dạy rằng
người làm việc lành, dữ hoặc vô ký sẽ nhận lấy hậu quả tương đương. Người lành
được phước, người dữ bị khổ. Nhưng thường thường người ta không hiểu chữ phước
theo nghĩa tâm linh, mà hiểu theo nghĩa giàu có, địa vị xã hội, hoặc uy quyền
chánh trị. Chẳng hạn như người ta bảo rằng được làm vua là do quả của mười nhân
thiện đã gieo trước, còn người chết bất đắc kỳ tử là do trả quả xấu ở kiếp nào,
dầu kiếp nầy người ấy không làm gì đáng trách—Law of cause and effect or the
relation between cause and effect in the sense of the Buddhist law of
“Karma”—The law of causation (reality itself as cause and effect in momentary
operation). Every action which is a cause will have a result or an effect.
Likewise every resultant action or effect has its cause. The law of cause and
effect is a fundamental concept within Buddhism governing all situations. The
Moral Causation in Buddhism means that a deed, good or bad, or indifferent,
brings its own result on the doer. Good people are happy and bad ones unhappy.
But in most cases “happiness” is understood not in its moral or spiritual sense
but in the sense of material prosperity, social position, or political
influence. For instance, kingship is considered the reward of one’s having
faithfully practiced the ten deeds of goodness. If one meets a tragic death, he
is thought to have committed something bad in his past lives even when he might
have spent a blameless life in the present one.
3) Nhân quả là một định luật tất nhiên nêu rõ sự tương quan,
tương duyên giữa nhân và quả, không phải có ai sinh, cũng không phải tự nhiên
sinh. Nếu không có nhân thì không thể có quả; nếu không có quả thì cũng không
có nhân. Nhân nào quả nấy, không bao giờ nhân quả tương phản hay mâu thuẫn nhau.
Nói cách khác, nhân quả bao giờ cũng đồng một loại. Nếu muốn được đậu thì phải
gieo giống đậu. Nếu muốn được cam thì phải gieo giống cam. Một khi đã gieo cỏ
dại mà mong gặt được lúa bắp là chuyện không tưởng: causality is a
natural law, mentioning the relationship between cause and effect. All things
come into being not without cause, since if there is no cause, there is no
effect and vice-versa. As so sow, so shall you reap. Cause and effect never
conflict with each other. In other words, cause and effect are always
consistent with each other. If we want to have beans, we must sow bean seeds.
If we want to have oranges, we must sow orange seeds. If wild weeds are
planted, then it’s unreasonable for one to hope to harvest edible fruits.
4) Một nhân không thể sinh được quả, mà phải được sự trợ giúp
của nhiều duyên khác, thí dụ, hạt lúa không thể nẩy mầm lúa nếu không có những
trợ duyên như ánh sáng, đất, nước, và nhân công trợ giúp. Trong nhân có quả,
trong quả có nhân. Chính trong nhân hiện tại chúng ta thấy quả vị lai, và chính
trong quả hiện tại chúng ta tìm được nhân quá khứ. Sự chuyển từ nhân đến quả có
khi nhanh có khi chậm. Có khi nhân quả xãy ra liền nhau như khi ta vừa đánh
tiếng trống thì tiếng trống phát hiện liền. Có khi nhân đã gây rồi nhưng phải
đợi thời gian sau quả mới hình thành như từ lúc gieo hạt lúa giống, nẩy mầm
thành mạ, nhổ mạ, cấy lúa, mạ lớn thành cây lúa, trổ bông, rồi cắt lúa, vân
vân, phải qua thời gian ba bốn tháng, hoặc năm sáu tháng. Có khi từ nhân đến
quả cách nhau hằng chục năm như một đứa bé cắp sách đến trường học tiểu học,
đến ngày thành tài 4 năm đại học phải trải qua thời gian ít nhất là 14 năm. Có
những trường hợp khác từ nhân đến quả có thể dài hơn, từ đời trước đến đời sau
mới phát hiện: One cause cannot have any effect. To produce an effect, it is
necessary to have some specific conditions. For instance, a grain of rice
cannot produce a rice plant without the presence of sunlight, soil,
water, and care. In the cause there is the effect; in the effect there is
the cause. From the current cause, we can see the future effect and from the
present effect we discerned the past cause. The development process from cause
to effect is sometimes quick, sometimes slow. Sometimes cause and effect are
simultaneous like that of beating a drum and hearing its sound. Sometimes cause
and effect are three or four months away like that of the grain of rice. It
takes about three to four, or five to six months from a rice seed to a young
rice plant, then to a rice plant that can produce rice. Sometimes it takes
about ten years for a cause to turn into an effect. For instance, from the time
the schoolboy enters the elementary school to the time he graduates a four-year
college, it takes him at least 14 years. Other causes may involve more time to
produce effects, may be the whole life or two lives.
5) Hiểu và tin vào luật nhân quả, Phật tử sẽ không mê tín dị
đoan, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang. Biết cuộc đời mình là do
nghiệp nhân của chính mình tạo ra, người Phật tử với lòng tự tin, có thêm sức
mạnh to lớn sẽ làm những hành động tốt đẹp thì chắc chắn nghiệp quả sẽ chuyển
nhẹ hơn, chứ không phải trả đúng quả như lúc tạo nhân. Nếu làm tốt nữa, biết tu
thân, giữ giới, tu tâm, nghiệp có thể chuyển hoàn toàn. Khi biết mình là động
lực chính của mọi thất bại hay thành công, người Phật tử sẽ không chán nản,
không trách móc, không ỷ lại, có thêm nhiều cố gắng, có thêm tự tin để hoàn
thành tốt mọi công việc. Biết giá trị của luật nhân quả, người Phật tử khi làm
một việc gì, khi nói một lời gì, nên suy nghĩ trước đến kết quả tốt hay xấu của
nó, chứ không làm liều, để rồi phải chịu hậu quả khổ đau trong tương lai: By
understanding and believing in the law of causality, Buddhists will not become
superstitious, or alarmed, and rely passively on heaven authority. He knows
that his life depends on his karmas. If he truly believes in such a causal
mecahnism, he strives to accomplish good deeds, which can reduce and alleviate
the effect of his bad karmas. If he continues to live a good life, devoting his
time and effort to practicing Buddhist teachings, he can eliminate all of his
bad karmas. He knows that he is the only driving force of his success or
failure, so he will be discouraged, put the blame on others, or rely on them.
He will put more effort into performing his duties satisfactorily. Ralizing the
value of the law of causality, he always cares for what he thinks, tells or
does in order to avoid bad karma.
Nhân
Quả Ba Đời: Nhân quả báo ứng thông cả ba
đời—The law of cause and effect (karma and its retribution) permeates all three
life spans.
1) Hiện báo: Immediate retributions—See Hiện Báo.
2) Sanh Báo: Rebirth retributions or next life retributions—See
Sanh Báo.
3) Hậu Báo: Future retributions—See Hậu Báo.
Nhân
Quả Giai Không Tông: Tông phái tà giáo chủ trương nhân
quả đều không (còn gọi là Không Kiến Luận, đặt ra chủ thuyết không nhân không
quả)—A sect of “heretics” who denied cause and effect both in regard to creation
and morals.
Nhân
Quả Ứng Báo: Những ai phủ nhận luật nhân quả
luân hồi sẽ hủy hoại tất cả những trách nhiệm luân lý của chính mình—Cause and
effect in the moral realm have their corresponding relations. Whoever denies
the rule of “cause and effect” will destroy all moral responsibility.
Nhân
Quần: The public.
Nhân
Quỷ: Người và quỷ—Men and disembodied
spirits (demons or disembodied ghosts).
Nhân
Quyền: Human right.
Nhân
Sinh: Human life.
Nhân
Sư: Thầy của loài người—The leader or
teacher of men.
Nhân
Sư Tử: Phật là bậc thầy hay hướng đạo sư
của loài người—The Lion of men, Buddha as leader and commander.
Nhân
Tài: Talented man.
Nhân
Tạo: Artificial—Not natural.
Nhân
Tâm: Human heart.
Nhân
Thân: Thân thể con người—The human body
or person.
Nhân
Thân Nan Đắc, Phật Pháp Khó Gặp; Được Thân Người, Gặp Phật Pháp Mà Không Chịu
Tu Tập, Để Một Phen Mất Đi Thân Người, Muôn Kiếp Khó Tìm Lại Được: It is difficult to be born as a human being, it is
difficult to encouter the Buddha-dharma; now one has been born as a human being
and has had a chance to encounter the Buddha-dharma, but does not zealouly
practice what one knows, once losing human body, it is hard to have it back
throughout the eons.
Nhân
Thân Ngưu: Trâu ngựa trong lớp con người
(ngu, si và không biết làm việc thiện)—Cattle in human shape (stupid, ignorant
and heedless).
Nhân
Thập Tứ Quá: Mười bốn sự sai lầm về nhân—The
fourteen possible errors or fallacies in the reasons in the syllogism.
Nhân
Thế: Human life.
Nhân
Thể: Human body.
Nhân
Thiên: Men and devas.
Nhân
Thiên Thắng Diệu Thiện Quả: Quả tái
sanh thắng thiện giữa người và trời—The highest forms of reincarnation, those
among men and devas.
Nhân
Thiên Thừa: Nhân Thừa và Thiên Thừa, hai trong
ngũ thừa—Men and Deva vehicles, two of the five Vehicles.
Nhân
Thú: Nẻo của chúng sanh con người, một
trong sáu nẻo (lục đạo)—Human stage of the six gati or states of
existence—See Nhân Thừa.
Nhân
Thứ: Generosity.
Nhân
Thừa: Một trong ngũ thừa (Thiên, Nhân, A
tu la, Ngạ quỷ, Địa ngục). Con người phải trì ngũ giới để được bảo đảm sanh trở
lại cõi người—Man—The sentient thinking being in the desire-realm, one of
the five vehicles (the world of men). Human being must keep five commandments to ensure rebirth in the world of men.
Nhân
Tiên:
1) Con người đã đạt được khả năng bất tử—Humans who have
attained the powers of immortals—Human genii—Immortal among men.
2) Phật: The Buddha.
3) Tên của vua Bình Sa Vương trong kiếp tái sanh: A name for
Bimbisara in his reincarnation.
Nhân
Tính: Human nature.
Nhân
Tôn:
1) Benevolent and honoured—Kindly honoured one.
2) Phật: Buddha—See Nhân Trung Tôn.
Nhân
Tôn Ngưu Vương: The Buddha, the Lord of the herd.
Nhân
Trung: Khoảng giữa mũi và môi trên—Space
between the nose and the upper lip.
Nhân
Trung Phân Đà Lợi Hoa:
1) Theo Kinh Niết Bàn, Phật là một bông sen giữa các chúng sanh
con người: According to the Nirvana Sutra, the Buddha is a Lotus among men.
2) Tất cả những ai trì niệm hồng danh Phật A Di Đà: All who
invoke Amitabha.
Nhân
Trung Sư Tử: Phật là Sư Tử trong loài người—The
Buddha, a Lion among men.
Nhân
Trung Tam Ác: Ba cái ác của loài người—The three
most wicked among men:
(A)
1) Tham: Desire.
2) Sân: Hatred.
3) Si: Ignorance.
(B)
1) Nhất xiển đề: The slanderers of Mahayana.
2) Những kẻ phá giới: Those who break Buddhist precepts.
3) Những kẻ phá hòa hợp Tăng: Those who break the harmony of
the Sangha.
Nhân
Trung Thụ: Phật là một tàng cây lớn (cây Bồ
Đề) cho nhân loại—The Buddha, a tree among men. The Buddha who provided the
bodhi tree as a shelter for men.
Nhân
Trung Tôn: Phật là bậc đáng tôn quí trong
loài người—The Honored One among or of men—The Buddha
Nhân
Tu: Sự tu hành như là nhân để thành
Phật—The practice of Buddhism as the cause of Buddhahood.
Nhân
Từ: Benevolent—Benevolence—Clemency.
Nhân
Từ Nhất: Most charitable.
Nhân
Tự Tính: Svahetulakshana (skt).
1) Đặc tính tự là nguyên nhân, tức là thực
tính—Self-cause-characteristic, that is, reality.
2) Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Phân biệt suông cũng
giống như sừng thỏ, chứ không có những dấu hiệu thực sự của tự tính.”—In the
Lankavatara Sutra, the Buddha taught: “A mere discrimination is the hare’s
horn, there are no real signs of selfhood.”
Nhân
Tướng: Một trong bốn tướng (sanh, trụ,
dị, diệt), bản chất hay nguồn gốc của vạn hữu—Causation—One of the four kinds
of forms or characteristics of Alaya-vijnana, the character of the origin of
all things.
Nhân
Vật Sống Động: A vivid human personality.
Nhân
Vị:
1) Personalism.
2) Địa vị tu hành Phật Nhân từ khi phát tâm cho đến lúc thành
Phật: The causative position, i.e. that of a Buddhist, for he has accepted a
cause, or enlightenment, that produces a changed outlook.
**
For more information, please see Quả Vị.
Nhân
Viên Quả Mãn: Nhân tu hành đầy đủ và Phật quả
viên mãn (theo Kinh Tâm Địa Quán: “Ba tăng kỳ kiếp độ chúng sanh, siêng tu tám
vạn Ba La Mật, nhân viên quả mãn thành chánh giác, trụ thọ ngưng lại không đến
đi)—The cause perfects and the effect completes (the practice of Buddhism).
Nhân
Vô Ngã: Pudgalanairatmya
(skt)—Selflessness of person—Con người không có sự thường hằng của cái ngã—Man
as without ego or permanent soul—No permanent human ego or soul.
Nhân
Vô Ngã Trí: Pudgalanairatmyajnana (skt).
1) Trí huệ của một con người vô ngã: The knowledge or wisdom of
a man without ego (anatman).
2) Cái trí biết rằng không có cái ngã hay linh hồn: The
knowledge that there is no ego-soul.
Nhân
Vương:
1) Vua nhân từ: The benevolent king.
2) Phật: Buddha.
Nhấn: To press.
Nhấn
Mạnh: To emphasize—To stress—To
press.
Nhẫn: Endurance—Patience—Perseverance.
(A) Nghĩa của Nhẫn—The meanings of “Nhẫn” (endurance):
1) Chiếc nhẫn: Ring.
2) Tàn Nhẫn: Bitter.
3) Kiên nhẫn: Ksanti (skt)—Nhẫn nại chịu đựng. Nhẫn là một đức
tánh quan trọng đặc biệt trong Phật giáo. Đức Phật thường dạy tứ chúng rằng:
“Nếu các ông chà xác hai mảnh cây vào nhau để lấy lửa, nhưng trước khi có lửa,
các ông đã ngừng để làm việc khác, sau đó dù có cọ tiếp rồi lại ngừng giữa
chừng thì cũng hoài công phí sức. Người tu cũng vậy, nếu chỉ tu vào những ngày
an cư kiết hạ hay những ngày cuối tuần, còn những ngày khác thì không tu, chẳng
bao giờ có thể đạt được kết quả lâu dài—Patience—Repression—Constancy—Perseverence—Endurance
is an especially important quality in Buddhism. The Buddha always teaches his
disciples: “If you try to rub two pieces of wood together to get fire, but
before fire is produced, you stop to do something else, only to resume later,
you would never obtain fire. Likewise, a person who cultivates sporadically,
e.g., during retreats or on weekends, but neglects daily practice, can never
achieve lasting results.
4) Theo Lục Độ Ba La Mật—According to the Six Paramitas:
a) Kshanti thường được dịch là “sự kiên nhẫn,” hay “sự cam
chịu,” hay “sự khiêm tốn,” khi nó là một trong lục độ ba la mật—Kshanti
generally translated “patience,” or “resignation,” or “humility,” when it is
one of the six Paramitas.
b) Nhưng khi nó xuất hiện trong sự nối kết với pháp bất sinh
thì nên dịch là “sự chấp nhận,” hay “sự nhận chịu,” hay “sự quy phục.”—But when
it occurs in connection with the dharma that is unborn, it would be rather
translated “acceptance,” or “recognition,” or “submission.”
5) Trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, Kshanti có nghĩa ngược với
Jnana. Kshanti không phải là cái biết chắc chắn như Jnana, vì trong Kshanti sự
nghi ngờ chưa được hoàn toàn nhổ bật gốc rễ—In the Abhidharmakosa, Kshanti is
used in a way contrasted to Jnana. Kshanti is not knowledge of certainty which
Jnana is, for in Kshanti doubt has not yet been entirely uprooted.
(B) Loại Nhẫn—Categories of “Nhẫn” (Endurance):
1) Nhị Nhẫn: Two kinds of endurance—See Nhị Nhẫn.
2) Tam Nhẫn: Three kinds of endurance—See Tam Nhẫn.
3) Ngũ Nhẫn: Five kinds of endurance—See Ngũ Nhẫn.
4) Lục Nhẫn: Six kinds of endurance—See Lục Nhẫn.
Nhẫn
Ba La Mật: The patience paramita—See Nhẫn
Nhục Ba La Mật.
Nhẫn
Bất Tùy Ác Thú: Nhẫn nhục bảo đảm không bị rơi vào
những đường dữ—The stage of patience ensures that there will be no falling into
the lower paths of transmigration.
Nhẫn
Cưới: Wedding (marriage)—Ring.
Nhẫn
Địa: Bậc đã giác ngộ vô sinh pháp
nhẫn—The stage of patience—The stage of enlightenment separating from
transmigration.
Nhẫn
Điều: Lấy cái tâm nhẫn (kiên nhẫn, kiên
trì, nhẫn nhục) để điều khiển hay chế ngự sự tức giận—Patiently to
harmonize, i.e. the patient heart tempers and subdues anger and hatred.
Nhẫn
Độ: Nơi mà chúng sanh có thể kham nhẫn
hay thế giới Ta Bà—The place of patience or endurance—This world.
Nhẫn
Gia Hạnh: Sự nhẫn nhục trong việc trì giới,
một trong tứ gia hạnh của Tiểu và Đại Thừa—The discipline of patience, one of
the four disciplines of both Hinayana and Mahayana.
Nhẫn
Giới: Saha or Sahloka or Sahalokadhatu
(skt).
1) Sự nhẫn nhục ảnh hưởng đến luân hồi—The universe of persons
subject to transmigration.
2) Thế giới Ta Bà hay thế gới của sự kham nhẫn: The universe of
endurance.
Nhẫn
Nhục:
(I) Nghĩa của Nhẫn Nhục—The meanings of Endurance:
(A) To digest or suffer an insult—Endurance—Patience.
1) Thân nhẫn: Endurance of human assaults and insults.
2) Pháp nhẫn: Endurance of the assaults
of nature, heat, cold, etc.
(B)
1) Nhẫn nhục hoàn cảnh ngang trái: Endurance in adverse
circumstances.
2) Nhẫn vì muốn kiên trì đạo lý: Endurance in the religious
state.
(II) Những lời Phật dạy về “Nhẫn Nhục” trong Kinh Pháp Cú—The
Buddha’s teachings on “Endurance” in the Dharmapada Sutra:
1) Voi xuất trận nhẫn chịu cung tên như thế nào, ta đây thường
nhẫn chịu mọi điều phỉ báng như thế ấy. Thật vậy, đời rất lắm người phá giới
(thường ghét kẻ tu hành)—As an elephant in the battlefield endures the arrows
shot from a bow, I shall withstand abuse in the same manner. Truly, most common
people are undisciplined (who are jealous of the disciplined) (Dharmapada
320).
2) Luyện được voi để đem dự hội, luyện được voi để cho vua cỡi
là giỏi, nhưng nếu luyện được lòng ẩn nhẫn trước sự chê bai, mới là người có
tài điêu luyện hơn cả mọi người—To lead a tamed elephant in battle is good. To
tame an elephant for the king to ride it better. He who tames himself to endure
harsh words patiently is the best among men (Dharmapada 321).
Nhẫn
Nhục Ba La Mật: Ksanti-paramita (skt).
1) Nhẫn nhục Ba la mật là Ba La Mật thứ ba trong Lục Ba La Mật.
Nhẫn nhục Ba La Mật là nhẫn nhục những gì khó nhẫn, nhẫn sự mạ lỵ mà không hề
oán hận—Nhẫn nhục Ba la mật còn là cửa ngõ đi vào hào quang chư pháp, vì nhờ đó
mà chúng ta có thể xa rời được sân hận, ngã mạn cống cao, nịnh hót, và ngu
xuẫn, và cũng nhờ nhẫn nhục Ba la mật mà chúng ta có thể dạy dỗ và hướng chúng
sanh với những tật xấu kể trên—Endurance-paramita, or forebearance paramita,
patience paramita, or ksanti-paramita is the third of the six paramitas. It
means to bear insult and distress without resentment, It is also a gate of
Dharma-illumination; for with it, we abandon all anger, arrogance, flattery,
and foolery, and we teach and guide living beings who have such vices.
2) Vị Bồ Tát thứ ba bên trái trong Hư Không Thai Tạng Giới, một
trong mười vị Bồ Tát trong Thai Tạng Giới: Its guardian bodhisattva is the
third on the left in the hall of space in the Garbhadhatu.
** For more information, please see Lục Độ
Ba La Mật in Vietnamese-English Section.
Nhẫn
Nhục Địa: Địa vị nhẫn nhục. Có hai loại—The
stage of patience. Two kinds are distinguished.
1) Sinh Nhẫn: Chịu đựng mọi lăng nhục như tức giận, chửi bới,
đánh đập của loài hữu tình—Insult originating from men such as abuse or hatred.
2) Pháp Nhẫn: Chịu đựng những họa hại không do loài hữu tình
gây ra cho mình, như chịu đựng sự nóng lạnh, mưa gió, đói khát, già bệnh, vân
vân—Distress arising from natural causes such as heat, cold, age, sickness,
etc.
Nhẫn
Nhục Thái Tử: Vị thái tử của thành Varanasi, Ba
La Nại, người đã cắt thịt mình để chữa lành bệnh cho mẹ cha mà không tỏ chút
giận hờn khó chịu—The patient prince, of Varanasi (Benares), who gave a piece
of his flesh to heal his sick parents, which was efficacious because he
had never given way to anger.
Nhẫn
Nhục Thân Tâm: Patience of the Body and the
mind—Chúng ta chỉ có thể đo lường đạo lực và sự nhẫn nhục thân tâm khi chúng ta
bị khinh hủy, chưởi mắng, vu oan giá họa, cũng như mọi chướng ngại khác—We can
only measure our level of attainment and patience of the body and mind when we
are contempted, slandered, under calamities, under injustice and all other
obstacles.
Nhẫn
Nhục Tiên: Ksantyrsi (skt)—Vị tiên nhẫn nhục
trước mọi lăng nhục mạ lỵ, như Đức Thích Ca Mâu Ni trong tiền kiếp, thời ngài
còn là một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục, từng nhẫn nhục trước sự lóc thịt xẻ da
bởi vua Ca Lợi mà không sanh lòng oán hận—The rsi who patiently suffers insult,
i.e. Sakyamuni, in a former life, suffering mutilation to convert
Kaliraja.
Nhẫn
Nhục Y: Enduring-humiliation robe—Chiếc áo
nhẫn nhục, cái tâm nhẫn nhục, gạt bỏ mọi tội lỗi bên ngoài. Tên gọi chung cho
áo cà sa của chư Tăng Ni—The robe of patience, a patient heart which, like a
garment, wards off all outward sin. A general name for the kasaya, or monk’s
robe.
Nhẫn
Pháp Vị: See Nhẫn Vị.
Nhẫn
Tâm: To be merciless (heartless) —To be
cruel.
Nhẫn
Thiện:
1) Sự nhẫn nhục và thiện nghiệp: The patience and good.
2) Sự nhẫn nhục trong khi hành thiện nghiệp: The patience in
doing good.
Nhẫn
Thủy: Nhẫn sâu và rộng như nước—Patience
in its depth and expanse compared to water.
Nhẫn
Tiên:
1) Vị Tiên nhẫn nhục: The patient sri—See Nhẫn Nhục Tiên.
2) Đức Phật: Immortal of patience, i.e. the Buddha.
Nhẫn
Trí: Nhẫn nhục và trí tuệ—Patience and
wisdom.
1) Theo Tiểu Thừa Hữu Bộ thì “nhẫn” là nhân, còn “trí” là quả:
In the Hinayana, patience is cause, wisdom effect.
2) Theo Đại Thừa thì “nhẫn” và “trí” không khác nhau, dù nhẫn
có trước trí (tuệ tâm an trụ ở pháp gọi là nhẫn, đối cảnh quyết đoán gọi là
trí; hay nhẫn là không chướng ngại, còn trí là giải thoát): In Mahayana, the
two are merged, though patience precedes wisdom.
Nhẫn
Vị: Thời kỳ nhẫn nhục, ý nói các bậc
đã chứng ngộ chân lý, bậc thứ sáu trong bảy bậc hiền, hay vị thứ ba trong tứ
thiện căn—The method or stage of patience, the sixth of the seven stages of the
Hinayana in the attainment of Arahanship or sainthood, or the third of the four
roots of goodness.
Nhận:
1) Nhận: To receive—To obtain.
2) Nhận hạt: To set—To enchase (diamond).
3) Nhận ngón tay: To press (a finger on something).
4) Thừa nhận: To recognize.
Nhận
Biết: To recognize.
Nhận
Biết Và Phân Biệt: Sự nhận biết tiến hành bằng
“thức,” trong khi sự phân biệt về những gì bày ra như một thế giới bên ngoài
được thực hiện bởi năm thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý)—Cognition goes on
by Vijnana, whereas the discrimination of what is presented as an
external world is done by the five Vijnanas.
Nhận
Chắc: To affirm.
Nhận
Chìm: To engulf.
Nhận
Dạng: Identification.
Nhận
Diện: To identify.
Nhận
Định: Consideration—Remark
Nhận
Lầm: To recognize by mistake
Nhận
Lỗi: To acknowledge one’s mistake
Nhận
Nhầm: To recognize by mistake.
Nhận
Nhiều Phước Báo: To receive good blessed rewards—To
collect good fruits.
Nhận
Ra: To identify.
Nhận
Thấy: To perceive—To notice.
Nhận
Thức: To recognize—To know—To
perceive—To conceive—To ackowledge.
Nhận
Thức Thiện Hữu Ác Hữu: Nhận ra bạn tốt và bạn xấu—To
recognize good and bad friends.
Nhận
Tội: To confess a crime—To admit one’s
guilt or sin.
Nhận
Xét: To judge.
Nhập: Chứng hội hay hiểu biết sự vật—To
enter—Entrance—Bring or take in—Entry—Awaken to the truth—Begin to understand—To
relate the mind to reality and thus evolve knowledge.
Nhập
Bất Nhị Môn: Lý thể vô nhị hay lý và thể không
sai khác—To enter the school of monism (One great reality is universal and
absolute without differentiation).
Nhập
Chúng: Người gia nhập Tăng đoàn phải tuân
phục năm quy luật—To enter the assembly of monks—Entrant must respect five
rules:
1) Tuân phục: Submission.
2) Nhân từ: Kindness.
3) Tôn trọng: Respect.
4) Tôn ti trật tự: Recognition of rank or order.
5) Chỉ nói chuyện đạo: None but religious
conversation.
Nhập
Chúng Ngũ Pháp: Năm quy luật nhập chúng—Five rules
for the entrant (submision, kindness, respect, recognition of rank or order,
and non but religious conversation)—See Nhập chúng.
Nhập
Cốt: Để cốt vào tháp hay mộ huyệt—To
inter the bones into a stupa or grave.
Nhập
Diệt: Đi vào cõi Niết Bàn—To enter into
rest (nirvana)—To die—See Nhập Tịch.
Nhập
Đàn: Đi đến đàn tràng để nhận lễ quán
đảnh—To go to the altar for Baptism.
Nhập
Đạo: Xuất gia đi vào giáo đoàn để trở
thành Tăng sĩ—To enter into a religion—To become a monk—To leave home and enter
the Way.
Nhập
Địa: Đi vào một giai đoạn đặc biệt của
một trong ba giai đoạn “nhập, trụ và xuất.”—To enter the state or a particular
stage of one of the three stages of “entrance, stay and exit.”
Nhập
Định: Nhập định bằng thanh tịnh thân,
khẩu và ý—To meditate—To enter into meditation by tranquilizing the body, mouth
and mind—A complete stillness of the mind—To enter dhyana—To enter into
samadhi (utmost concentration)—See Nhập Quán.
Nhập
Đường: See Nhập Chúng.
Nhập
Đường Bát Gia: Tám vị sư Nhật Bản đến trung Hoa
vào thời nhà Đường để tu học Mật Giáo—The eight Japanese monks who came to
China in the T’ang dynasty and study the esoteric doctrine.
Nhập
Gia Tùy Tục: When in Rome, do as the Romans do.
Nhập
Kiến: Penetrative insight
Nhập
Liệm: To coffin a body.
Nhập
Lưu: Dự Lưu—Srota-apanna
(skt)—Stream-entering—See Srota-apanna in Sanskrit/Pali-Vietnamese Section, and
Tứ Thánh Quả in Vietnamese-English Section.
Nhập
Môn: To enter a sect (school).
Nhập
Ngã Ngã Nhập: Như Lai nhập vào ta và ta nhập vào
Như Lai—He in me and I in him (the indwelling of the Buddha).
Nhập
Niết Bàn: To pass (enter) into Nirvana.
Nhập
Pháp Giới: Trong Kinh Hoa Nghiêm, nhập pháp
giới có nghĩa là một pháp dù nhỏ như một vi trần vẫn chứa đựng cái lớn
nhất và ngược lại. Tâm chúng sanh, vũ trụ và Phật không sai khác. Kỳ thật, tâm,
chúng sanh và Phật là một—Interpenetration—Basic teaching of Avatamsaka Sutra
(Kinh Hoa Nghiêm) which reveals the Interpenetration of all dharmas, the
smallest dharma contains the largest and vise versa—The human mind is the
universe itself and is identical with the Buddha, indeed, that Buddha, mind and
all sentient beings and things are one and the same.
Nhập
Phật: Rước tượng Phật—The bringing in of
an image of a Buddha.
Nhập
Phật Bình Đẳng Giới: Với Phật giáo, mọi chúng sanh đều
có thể đạt thành Phật quả—The Buddha-law by which all may attain to Buddhahood.
Nhập
Phật Cúng Dường: Lễ thỉnh tượng Phật—The ceremony
of bringing in a Buddha’s image.
Nhập
Quan: Đưa thi hài vào quan
tài—Encoffining a dead monk—To coffin a dead body.
Nhập
Quán: Đi vào thiền quán để tự tâm tịch
tịnh và tự quán chiếu lý (complete stillness of the mind and thought for
enlightenment)—To enter into meditation—Thought and study for enlightenment in
regard to truth—See Nhập Định.
Nhập
Tâm: Giai đoạn đầu trong ba giai đoạn
“nhập, trụ và xuất” của mỗi địa Bồ Tát—To enter the heart or the mind—To fix in
the memory—The first stage in the three stages of “Entrance, stay and exit” in
each stage of Bodhisattva.
Nhập
Thánh: Trở thành một vị A-La-Hán—To
become an Arahant.
Nhập
Tháp: Để xương cốt hay thi thể của một
vị sư vào tháp—To enter the bones of body of a monk in a pagoda.
Nhập
Thất:
1) Vào buồng thầy để hỏi đạo hay được sự chỉ dẫn: To enter the
master’s study for examination or instruction.
2) Cử hành lễ quán đảnh để trở thành Nhập thất đệ tử, nhưng chỉ
dành cho những đệ tử cao cấp—To enter the status of a disciple, but strictly of
an advanced disciple—To receive consecration.
3) Nhập thất và tự bế môn trong phòng để tự thanh tịnh và tăng
trưởng định lực—To enter and shut off oneself up in the room to purify and
strengthen one’s concentration power.
Nhập
Thế: Đi vào đời—To enter the world.
Nhập Thế Gian Thù Thắng Trí Môn: Đi vào
trí tuệ thù thắng nhất của thế gian—To enter into the highest knowledge in the
world.
Nhập
Tịch: Đi vào cõi Niết Bàn—To enter into
rest or nirvana.
Nhập
Tín: Tin tưởng—To enter into belief—To
believe.
Nhập
Trọng (Trùng) Huyền Môn:
1) Bồ Tát đi vào cửa sanh tử, ngay cả địa ngục để cứu độ chúng
sanh đau khổ: Bodhisatvas enter again through the dark gate into mortality,
even into the hells, to save suffering beings.
2) Sự trở lại đời của một vị Bồ Tát để tiến thêm trên đường đại
giác cũng như cứu độ chúng sanh: The return of a Bodhisattva to common life for
further enlightenment or salvation of others.
Nhập
Trụ Xuất Tam Tâm:
1) Ba tâm nhập, trụ và xuất—Enter, stay and exit.
2) Trong mỗi địa của Thập Địa Bồ Tát, hành giả phải kinh qua ba
tâm nhập, trụ, và xuất trước khi tiến lên địa kế tiếp—In each stage of the ten
stages of Bodhisattva, one must experience three minds of entrance,
staying and exiting before advancing to the next stage.
Nhập
Văn Giải Thích: Phương pháp giải thích Kinh văn
bằng cách cho biết đại ý trước khi đi vào chi tiết—The method in expounding
scriptures of giving the main idea before proceeding to detail exposition.
Nhập
Vương Cung Tụ Lạc Y: Y của chư Tăng, mặc một cách bình
đẳng khi vào cung vua hay khi đi khất thực trong thôn xóm—The monk’s robe, worn
equally for a palace or for begging in town or hamlet.
Nhập
Xuất Nhị Môn: Hai cửa vào ra—Vào cửa tự thanh
tịnh và ra cửa cứu độ chúng sanh—The two doors of ingress and egress—Enter the
gate of self-purification and then go forth to benefit and save others.
Nhất: Eka (skt)—Một—One—Unity—The same—Once.
Nhất
Âm Giáo: Học thuyết được sáng lập bởi Cưu
Ma La Thập và Bồ Đề Lưu Chi—The one-sound teaching which was founded by
Kumarajiva and Bodhiruci—The totality of Buddha’s doctrine
Nhất
Ấn: Một ấn—A seal—Sign—Symbol.
Nhất
Bách: Sata (skt)—Một trăm—One hundred.
Nhất
Bách Bát Tràng Hạt: Một trăm lẽ tám tràng hạt—One
hundred and eight pearls (beads).
Nhất
Bạch Tam Kiết Ma: Trong nghi lễ thọ giới, vị sư được
thọ giới sẽ trả lời ba lần mỗi câu hỏi của sư chứng minh—One announcement and
three responses—It is the mode of ordaining monks, three responses to the one
call of the abbot.
Nhất
Bảo: Một bảo vật (sự linh mẫn của tâm
tánh)—The one precious thing—The spirit or intelligent mind or nature .
Nhất
Biến: Một lần niệm hồng danh của
Phật—One recital of Buddha’s name.
Nhất
Bút Tam Lễ: Mỗi nét họa hình của Thế Tôn, lễ
lạy ba lần—Three salutions at each drawing or painting of a picture of the
Buddha.
Nhất
Cảnh: One region—One realm.
Nhất
Chân: Nhất như—Nhất thật—The whole of
reality (bhutatathata).
Nhất
Chân Địa: The state of meditation on the
absolute.
Nhất
Chân Như: See Chân Như (B).
Nhất
Chân Pháp Giới: Pháp giới của chân thực—The dharma
realm of the one reality.
Nhất
Chuyển Ngữ: Một chữ làm chuyển đổi—A turning
word—A word when spoken and heard just at the right time and place, has the
power to serve as a turning point in one's life.
Nhất
Cơ Nhất Cảnh: One subjective corresponds to one
objective:
1) Cơ: The subjective (fire).
2) Cảnh: The objective (smoke).
Nhất
Cú: Một câu—One sentence—A word.
Nhất
Cú Đạo Tận: Với một câu làm tỏ bày chư
pháp—With one sentence to make clear the whole Law.
Nhất
Cú Tri Giáo: Thiền sư Trung Hoa, quê ở núi
Phụng Hoàng, Hồ Châu, Trung Quốc. Sau khi sư được Thiền sư Tịnh Chu truyền tâm
ấn, sư trở về núi Phụng Hoàng hoằng hóa và thị tịch tại đây, nhưng không rõ năm
nào—A Chinese Zen Master from Mount Phụng Hoàng, Hồ Châu, China. After Zen
Master Tịnh Chu transmitted the Dharma mind seal to him, he returned to Mount
Phụng Hoàng to expand Buddhism and passed away there; however, his passing away
day was unknown.
Nhất
Cửu Chi Sanh: Sanh vào một trong cửu phẩm Tịnh
Độ—Future life in tha Amitabha Pure Land.
Nhất
Dị: Ekatva-anyatva (skt)—Một và
nhiều—One and many—Oneness and otherness.
Nhất
Đại: Một đời—A human life.
Nhất
Đại Giáo: Toàn bộ giáo pháp của Phật từ lúc
mới đạt được đại giác đến lúc nhập Niết bàn (bao gồm cả Tiểu lẫn Đại thừa)—The
whole of the Buddha’s teaching from his enlightenment to his nirvana (including
both Hinayan and Mahayana).
Nhất
Đại Ngũ Thời Phật Giáo: Năm thời
thuyết pháp—The five periods of Buddha’s teachings (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương
Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn).
Nhất
Đại Sự: Một việc trọng đại của Đức Phật là
làm cho chư chúng sanh giác ngộ và giải thoát—The one great work of a Buddha,
universal enlighenment and release.
Nhất
Đại Tam Đoạn: See Nhứt Đại Tam Đoạn.
Nhất
Đại Tam Thiên Thế Giới: Nhất đại
thiên—Tam thiên đại thiên thế giới—A great chiliocosmos or universe of the
three kinds of thousands of worlds.
Nhất
Đại Trạch: Căn nhà lớn, nhà lửa đang cháy
được Phật thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa—A great house, the burning house in
the Lotus Sutra—For more information, please see Hỏa Trạch in
Vietnamese-English Section.
Nhất
Đao Tam Lễ: Mỗi một nhát dao chạm trổ hình
tượng Phật đều phải lễ bái Tam Bảo—In carving an statue (image) of Buddha, at
each cut thrice to pay homage to the Triratna.
Nhất
Đạo: Đại Thừa—The one way of
deliverance from mortality (Mahayana).
Nhất
Đạo Thần Quang: Nội quang hay trí trực giác—Inner
light—Intuitive wisdom.
Nhất
Đạo Vô Vi Tâm: Mind apart from all ideas of
activity or inactivity.
Nhất
Đẳng:
1) Tất cả đều bình đẳng: All equal.
2) Đệ nhất: First degree.
Nhất
Địa: The one ground—Phật tánh của chúng
sanh mọi loài, như các loại cây được trồng trên một mảnh đất, tất cả những bản
chất và sự việc thiện lành đều được trưởng dưỡng từ cái Phật tánh ấy—The
Buddha-nature of all living beings as all the plants grow out of the one
ground, so all good character and works grow from the one Buddha-nature.
Nhất
Điểm Tâm: Ekaggata (p)—Theo A Tỳ Đạt Ma Luận
(Vi Diệu Pháp), Phạn ngữ “Ekaggata” có nghĩa là một điểm duy nhất hay là trạng
thái gom tâm an trụ vào một điểm duy nhất. Đây là tâm sở nằm trong các tầng
thiền (jhanas). Nhất điểm tâm tạm thời khắc phục triền cái tham dục, một điều
kiện tất yếu để đạt được thiền định. “Ekaggata” thực tập quán tưởng thật sát
vào đề mục; tuy nhiên, “Ekaggata” không thể nào đạt được riêng lẽ, mà nó cần
đến những yếu tố khác như “Tầm,” “Sát,” “Phỉ,” và “Lạc.”—According to the
Abhidharma, Pali term “Ekaggata” means a one pointed state. This mental factor
is the primary component in all jhanas. One-pointedness temporarily inhibits
sensual desire, a necessary condition for any meditative attainment. “Ekaggata”
exercises the function of closely contemplating the object; however, it cannot
perform this function alone. It requires the joint action of the other jhanas
such as “Vitaka” (applying the associated state on the object), “Vicara”
(sustaining them there), “Piti” (bringing delight in the object, “Sukha”
(experiencing happiness in the jhana).
Nhất
Điểm Trụ: Theo Tỳ Kheo Piyananda trong Những
Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo, nhất điểm trụ là trạng thái sau đây—According to
Bhikkhu Piyananda in The Gems of Buddhism Wisdom.
1) Nhất điểm trụ là trạng thái tập trung mà tất cả những khả
năng và sức mạnh tinh thần đều nhắm vào và điều khiển bởi sức mạnh ý chí hướng
về một điểm hay một đối tượng. Nhất điểm tâm là một tâm được tập trung và hợp
nhất. Nhất điểm tâm là sự đối nghịch của tâm buông lung hay tán loạn. Bình
thường trạng thái tinh thần của chúng ta chạy đi mọi hướng, nhưng nếu sự tập
trung được dồn vào một đối tượng, bạn bắt đầu biết bản chất thực sự của đối
tượng ấy. Tiến trình của sự tập trung lần lần thay đổi trạng thái tinh thần cho
đến khi toàn bộ năng lượng tinh thần đồng quy vào một điểm: One-pointedness is
a concentrated state in which all the faculties and mental powers are focussed
and governed by the will-power and directed towards one point or one object. A
one-pointed mind is the opposite of a distracted or scattered mind. Ordinarily
our mental states are scattered in all directions but if the concentration is
fixed on one object, then you begin to know the true nature of that object. The
process of concentration gradually modifies the mental states until the whole
mental energy converges towards one point.
2) Nếu bạn huấn luyện tâm vào “nhất điểm,” bạn sẽ mang lại bình
tĩnh và sự tĩnh lặng cho tâm, và bạn có thể gom sự chú ý vào một điểm, cũng như
có thể ngưng những vọng tưởng của tâm và những phí phạm năng lượng hữu dụng.
Tuy nhiên, tâm tĩnh lặng không phải là mục đích tối hậu. Sự tĩnh lặng nầy chỉ
là cần thiết để phát triển tuệ giác. Nói một cách khác, tâm tĩnh lặng cần thiết
nếu bạn muốn có một cái nhìn sâu vào chính mình, và có được sự hiểu biết sâu xa
về chính mình và thế giới: If you train your mind in one-pointedness, you will
be able to bring calmness and tranquility to the mind and you will be able to
gather your attention to one point, so as to stop the mind from frittering away
and wasting its useful energy. A calm mind is not an end in itself. Calmness of
mind is only a necessary condition to develop “Insight.” In other words, a calm
mind is necessary if you want to have a deep look into yourself and to have a
deep understanding of yourself and the world.
3) Thiền Tam Ma Địa huấn luyện tâm với nhiều giai đoạn khác
nhau của sự tập trung tinh thần. Ở giai đoạn cao của sự tập trung tinh thần,
tức là đắc thiền hay jnana, sức mạnh tâm linh được phát triển. Tuy nhiên, giai
đoạn cao về sự tập trung không cần thiết hay thực tiển cho hầu hết mọi người
sống trong nhịp độ cuồng nhiệt của đời sống hiện đại. Với hầu hết mọi người,
tâm nhẩy từ quá khứ tới hiện tại vị lai, và từ chỗ nầy đến chỗ khác không ngừng
nghỉ. Những người như vậy phí phạm một khối lượng năng lực tinh thần to lớn.
Nếu bạn có thể huấn luyện tâm bạn duy trì đủ sự tập trung chú ý đến mỗi nhiệm
vụ từng chập một thì quá thừa đủ! Khi bạn đọc sách, đi tản bộ, nghỉ ngơi, trò
chuyện, hay bất cứ thứ gì mà bạn làm trong cuộc sống hằng ngày, hãy hoạt động
với một tâm tĩnh lặng, đó là chú tâm vào mỗi nhiệm vụ: Samatha meditation
trains the mind to various stages of mental concentration. At very high stages
of mental concentration, known as jnana, psychic powers can be developed.
However, such high stages of concentration are not necessary or practical for
most people who have to live in the hectic pace of modern life. For most
people, the mind is jumping from past to present to future and from place to
place. Such people waste an enormous amount of mental energy. If you can train
your mind to maintain enough concentration to pay attention to each task from
moment to moment, this is more than enough! When you are reading, walking,
resting, talking, whatever you do in your daily life, act with a mind that is
calm and that is paying attention to each and every action. Learn to focus the
mind on each task.
Nhất
Định:
1) Decidedly—Surely.
2) To decide—To determine—To make up one’s mind.
Nhất
Định Thiền Sư: Zen Master Nhất Định
(1784-1847)—Thiền sư Việt Nam, quê ở Quảng Trị. Khi hãy còn rất trẻ, ngài đã
xuất gia làm đệ tử của Hòa Thượng Phổ Tịnh tại chùa Thiên Thọ. Sau đó ngài thọ
cụ túc giới với Hòa Thượng Mật Hoằng tại chùa Quốc Ân. Sau khi thọ giới, ngài
về trụ trì tại chùa Thiên Thọ. Rồi vâng mệnh vua Tự Đức đến trụ trì chùa Linh
Hựu. Đến năm 1843, ngài trở thành một du Tăng rài đây mai đó. Trên đường hoằng
hóa, ngài ghé lại Hương Thủy cất “Dưỡng Am” để phụng dưỡng mẹ già và trụ lại
đây để hoằng trì Phật Giáo cho đến khi ngài viên tịch. Người ta nói Hòa Thượng
Nhất Định xây dựng “Dưỡng Am” để phụng dưỡng mẹ già đang đau yếu bệnh hoạn. Lúc
ấy thầy thuốc khuyên bà nên ăn cá hay thịt cho lợi sức. Mỗi sáng Hòa Thượng
Nhất Định tự mình ra chợ mua cá về nấu cho mẹ ăn. Vì thế nên có tiếng dị nghị
xấu. Tuy nhiên, vua Tự Đức rất thán phục sự hiếu hạnh của ngài nên ban tặng cho
chùa tấm bảng đề “Sắc Tứ Từ Hiếu Tự.”—A Vietnamese monk from Quảng Trị. When he
was very young, he left home and became a disciple of Zen Master Phổ Tịnh at
Thiên Thọ Temple. Later he received complete precepts with Most Venerable Mật
Hoằng at Quốc Ân Temple. He stayed at Thiên Thọ Temple. Then obeyed an
order from King Tự Đức, he went to Linh Hựu temple. In 8143 he became a
wandering monk. He stopped by Hương Thủy and built Dưỡng Am to serve his mother
and stayed there to expand Buddhism until he passed away in 1874. It is said
that “Dưỡng Am” was first built by Most Venerable Nhất Định as a thatch hut to
serve his old mother. At one time, his mother was too sick so she was advised
by the doctors to eat fish and meat for health recuperation. Every morning the
Most Venerable went to the market place to get some fish and meat by himself to
feed his ill mother. Therefore, he received a lot of bad comments from the
local people. However, King Tự Đức appreciated him as a dutiful son so he gave
the temple an escutcheon named Từ Hiếu (Filial Piety).
Nhất
Đoạn Sự: Tiến trình đồng nhứt, liên tục và
không đứt đoạn của thiên nhiên (vạn hữu chỉ là một tiến trình liên tục)—The
unity or continuity in the unbroken processes of nature (all being is but one
continuous process).
Nhất
Gia Yến: Sư trụ trì mới về trú xứ mời các
đồng viện tham dự buổi tiệc đãi trong tịnh xá—A monastery family party, when a
monk, on becoming head of a monastery, invites his colleagues to a feast.
Nhất
Giác Tiên Nhân: See Độc Giác Tiên Nhân.
Nhất
Hạ: An cư kiết hạ từ ngày 16 tháng tư
đến 15 tháng bảy—The summer retreat from the 16th of the 4th month to the
15th of the 7th month.
Nhất
Hạng: First class.
Nhất
Hành:
1) One act (of body, mouth or mind).
2) Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương Yếu Triết Học Phật
Giáo, Nhất Hành (683-727), đệ tử của Thiện Vô Úy, tinh thông về Tam Luận,
Thiền, Thiên Thai và lịch số, từng giúp Thiện Vô Úy dịch kinh Đại Nhật. Nhờ
nghe thầy giảng, Nhất Hành đã trước tác một bản sớ về Kinh Đại Nhật, gọi là Đại
Nhật Kinh Sớ. Vì là một học giả uyên thâm về Thiên Thai giáo, nên bản sớ giải
của ông được xem như chứa đựng rất nhiều giáo nghĩa Thiên Thai. Bản cảo
lưu truyền chưa được tu chính, sau cùng được Trí Nghiễm, đệ tử của Thiện Vô Úy
và Ôn Cổ, đệ tử của Kim Cang Trí, hiệu đính và đặt tựa lại là Đại Nhật Kinh
Thích Nghĩa. Đông Mật vẫn y theo bản kinh cũ chưa được tu chính, trong lúc Thai
Mật lại dùng bản được hiệu đính nầy. Nhất Hành theo học với cả hai Pháp sư Ấn
Độ là Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí và được cả hai truyền cho các nghi quỹ về Kim
Cang Giới (Vajradhatu) và Thai Tạng Giới (Garbhadhatu), nhưng có người cho rằng
ông coi Kim Cang Giới quan trọng hơn—According to Prof. Junjiro Takakusu in The
Essentials of Buddhist Philosophy, I-Hsing (683-727), a pupil of Subhakarasimha, who was well versed in the San-Lun, the Zen, the T’ien-T’ai,
and the calendar, assisted Subhakarasimha in his translation of the ‘Great Sun’
text. On hearing the lecture from his teacher, I-Hsing compiled a commentary on
the ‘Sun’ text called Ta-Jih-Ching-Su. Since he was a savant of the T’ien-T’ai
doctrine, his commentary is said to contain some of the T’ien-T’ai tenets. The
commentary, as it was left in an unrevised manuscript, was afterward revised by
Chih-Yen, a pupil of Subhakarasimha, and Wên-Ku, a pupil of Vajrabodhi, and was
called by a new name Ta-Jih-Ching I-Shih. The Tomitsu follows the former
revision whilt the Taimitsu adopts the latter. I-Hsing studied under the two
Indian teachers Subhakarasimha and Vajrabodhi, and received the cults of both
the Realm of Matrix Repository (Garbhadhatu) and the Realm of Diamond Elements
(Vajradhatu), but he is said to have held the latter as the more important of
the two.
Nhất
Hằng Hà Sa: See Nhứt Hằng Hà Sa.
Nhất
Hình: See Nhứt Hình và Nhất Kỳ.
Nhất
Hóa: Sự giáo hóa và ảnh hưởng của một
vị Phật trong thời tại thế của vị Phật nầy—The teaching and influence of a
Buddha during one Buddha-period.
Nhất
Hóa Ngũ Vị Giáo: See Nhứt Hóa Ngũ Vị Giáo.
Nhất
Họa Tam Lễ: Mỗi nét vẽ hình tượng chư Phật đều
phải lễ lạy Tam Bảo—In drawing an image of Buddha, at each drawing thrice
to pay homage to the Triratna.
Nhất
Hướng: Tâm định trên một hướng—One
direction—Each direction—Undistracted—With a single mind—The mind is fixed on
one direction.
Nhất
Hướng Tông: Nhất Hướng Chân Tông—Tín đồ của
tông phái nầy thực tập bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà để đạt được nhất
tâm—The Pure Land Shin Sect of which followers practice by repeating the name
of Amitabha Buddha to obtain unwavering concentration.
Nhất
Hướng Đại Thừa Tự: Tự viện Đại Thừa—A monastery
wholly Mahayana.
Nhất
Hướng Ký: Câu trả lời khẳng định—A confirmatory reply to a question.
Nhất
Hướng Thanh Tịnh, Vô Hữu Nữ Nhân:
Phật độ duy chỉ một đường thanh tịnh, không có nữ nhân—The land of the Buddha
everywhere is pure, no women are there.
Nhất
Hướng Tiểu Thừa Tự: Tự viện Tiểu Thừa—A monastery
wholly Hinayana.
Nhất
Khắc Thiên Kim: Một khắc đáng giá ngàn vàng (thời
gian quý báu như vàng)—Time is as precious as gold (time is as precious as
gold).
Nhất
Không: Tất cả đều không—Non-material—All
is empty—All is of the void.
Nhất
Kiến: Cái nhìn hay cuộc gặp gỡ đầu
tiên—At first sight or at the first meeting.
Nhất
Kỳ: Một đời—A lifetime—The period of
an individual existence.
Nhất
Lai: Sakrdagamin (skt)—Chỉ còn tái sanh
một lần—Only one more return to mortality.
Nhất
Lai Bồ Tát: Bồ Tát chỉ còn tái sanh một lần
nữa, người đã thực chứng Tứ Thánh Đế và đã diệt trừ đa phần nhiễm trược. Người
nầy chỉ còn trở lại trần thế một lần nữa trước khi thực chứng A La Hán—One-Life
Bodhisattva—Once-Returner—One-life Bodhisattva—Who is one lifetime away from
Buddhahood—The best known example is the Bodhisattva Maitrya—An enlightened
being in the second stage towards Arhatship, who has realized the Four Noble
Truths and has eradicated a great portion of defilements. He will return to the
human world for only one more rebirth before he reaches full realization of
Arhatship.
Nhất
Liên: Bông sen của cõi Tịnh Độ—The
Lotus-flower of the Pure Land of Amitabha.
Nhất
Liên Hoa: See Nhất Liên.
Nhất
Loạt: Uniformly.
Nhất
Lưu: Trong cùng một dòng—Of the same
class—Of the same flow.
Nhất
Nghiệp: A karma.
Nhất
Nghiệp Nhân: A karma cause (Causative of the
next form of existence).
Nhất
Ngốc Thừa: A “bald-pated” vehicle—An
unproductive monk or disciple.
Nhất
Ngôn: Một lời nói—One word only.
Nhất
Nguyện Kiên Lập: The one vow—See Tứ Thập Bát
Nguyện.
Nhất
Nhãn Chi Qui: Rùa biển một mắt, từ đáy biển trồi
lên trong một bọng cây, thấy được vầng nhựt nguyệt, rồi theo lượn sóng mà tấp
vào bờ. Ý nói sự hiếm quý của sự thị hiện của Phật, cũng như được sanh làm
người vậy—A sea turtle which has only one eye, and that underneath, entered a
hollow in a floating log; the log, tossed by the waves, happen to roll over,
whereupon the turtle momentarily saw the sun and moon. This refers to the
rareness of the appearance of a Buddha, also of the difficulty of being born as
a man.
Nhất
Nhân: Nhất nhơn—A cause—The cause from
which the Buddha-law arises.
Nhất
Nhất: Mọi người hay mọi
vật—All—Everything—Everyone—One by one.
Nhất
Nhật Kinh: See Đốn Kinh.
Nhất
Như: The one bhutatathata or absolute
(chân như).
1) Chân Như: The true suchness or true character, or reality.
2) Pháp tánh: Nature of things or beings.
** For more information, please see
Chân Như.
Nhất
Như Đốn Chứng: Tức thì chứng ngộ Bồ Đề—Immediate
experiential enlightenment by the Tathagata truth—The immediate realization
that all is bhutatathata.
Nhất
Như Quán Âm: Một trong 33 đại biểu của Quán Âm,
đi lên từ trên mây—One of the thirty-three representations of Kuan-Yin,
ascending on the clouds.
Nhất
Nhựt: A day from sun rise to sun set.
Nhất
Nhựt Nhất Dạ: One day one night.
Nhất
Nhựt Phật: A one-day Buddha—One who lives a
whole day purely.
Nhất
Niệm: A ksana (skt)—A concentration of mind—A thought—The time of a thought.
Nhất
Niệm Bất Sinh: Không một niệm nào phát sanh—Not a
thought arising.
Nhất
Niệm Nghiệp Thành: Chỉ trong một niệm là nghiệp đã
được thành lập. Nếu thành tâm trì niệm hồng danh Phật A Di Đà thì đường vào
Tịnh độ là chắc chắn—Karma complete in one thought or at just one thought the
work completed. If one has sincere thought or fath in Amitabha’s vow, entrance
into the Pure Land is assured.
Nhất
Niệm Tam Thiên: Một niệm bao trùm chúng sanh trong
cả tam thiên đại thiên thế giới—In one thought to survey or embrace the three
thousand worlds with all its forms od existence.
Nhất
Niệm Tham Sân Khởi, Bá Vạn Chướng Môn Khai:
A thought of greed and anger arises, thousand doors of hindrances open.
Nhất
Niệm Vạn Niên: Chỉ một niệm Di Đà mà được vạn năm
không trở lại luân hồi sanh tử—In a moment’s thought of Amitabha to obtain a
myriad years and no return to mortality.
Nhất
Ninh: Nhà sư Trung Hoa sang Nhật vào
khoảng năm 1299—A Chinese monk who went to Japan in 1299.
Nhất
Nữ Bất Giá Nhị Phu: Người xưa tin rằng một người đàn
bà không bao giờ lấy hai chồng—Old timers believed that one woman should never
have (get married to) two husbands.
Nhất
Pháp: A dharma or law—A thing.
Nhất
Pháp Ấn: The seal or assurance of the one
truth or law.
Nhất
Pháp Giới: The bhutatathata considered in
terms of mind as a whole—A spiritual realm.
Nhất
Pháp Giới Tâm: A mind universal which is above
limitations of existence or differentiation.
Nhất
Phẩm: Varga (skt)—One chapter of a
sutra.
Nhất
Phần Bồ Tát: A one-tenth bodhisattva—A disciple
who keeps one-tenth of the commandments.
Nhất
Phật Đa Phật: One Buddha or many Buddhas.
Nhất
Phật Quốc Độ: See Nhất Phật thế giới.
Nhất
Phật Thế Giới: Phật giới hay Tịnh độ—A
Buddha-cosmo or Buddha-domain (a world undergoing transformation by a
Buddha)—Buddha-region—Pure Land.
Nhất
Phật Thừa: The One-Buddha-Yana—Những người
theo Phật giáo Đại thừa tin rằng đây là con đường duy nhất giúp chúng ta đáo bỉ
ngạn Niết Bàn—The Mahayanists believe that this is the perfect and only way to
the shore of parinirvana—See Nhất Thừa.
Nhất
Phật Tịnh Độ: A Buddha’s Pure Land, especially
that of Amitabha.
Nhất
Phu Nhất Thê: Monogamy.
Nhất
Quán:
1) Nhất điểm quán: The contemplation on the one-pointedness.
2) Một đề mục quán tưởng: Theo Vi Diệu Pháp, đây là quán tưởng
về tánh cách không trong sạch của thức ăn, hay sự ghê tởm của vật
thực—According to The Abhidharma, this is the one perception of loadsomeness of
material food (ahare patikkulasanna).
Nhất
Quang Tam Tôn: Ba đấng Chí Tôn dưới một vầng hào
quang (Di Đà, Quán Âm, và Thế Chí)—Three Honored Ones in one light or halo
(Amitabha, Avalokitesvara, Mahasthamaprapta).
Nhất
Quyết: To determine—To decide.
Nhất
Sanh: Một đời người—A whole
lifetime—Lifetime—Throughout one’s life.
Nhất
Sanh Bất Phạm: Life-long innocence.
Nhất
Sanh Bổ Xứ: Eka-jati-prati-badha (skt)—Giai
đoạn mà vị Bồ Tát chỉ một lần sanh ở chỗ nầy là được bổ lên ngôi vị Phật—The
stage of having only one lifetime or one enlightenment to attain Buddhahood.
Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát: Vị chỉ còn sanh vào cõi Tịnh Độ
một lần nữa là được lên ngôi Phật, thường chỉ áp dụng cho Bồ Tát. Tất cả các vị
vãng sanh Tịnh Độ, người nào cũng quyết thực là nhất sanh bổ xứ, trong số đó có
vô số “Thượng Thiện Nhân”—One who, in this one life, accomplishes the three
stages for final entry. The stage of having only one lifetime to go before
enlightenment, generally attributed to Bodhisattvas (associated with 20th vow
of Amitabha). Everyone in the Pure Land is sure to experience the stage of
having only one lifetime to go before enlightenment, and among them are
countless numbers of such superlative Bodhisattvas.
Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát Tượng: A
30-armed image of Maitreya (Di Lặc).
Nhất
Sanh Nhập Diệu Giác: Buddha enlightenment can be
attained by any in one lifetime.
Nhất
Sanh Viên Mãn: Perfect Realization in a
lifetime—Trong các thời kỳ giáo thuyết của Đức Phật, chỉ có thời kỳ Hoa Nghiêm
là nói rõ nghĩa của “Nhất Sanh Viên Mãn.” Đức Phật giảng rất rõ về Nhất Sanh
Viên Mãn trong Phổ Hiền Thập Hạnh Nguyện. Đây là con đường trở về cõi An Dưỡng
Địa hay Tây Phương Cực Lạc của người tu mà Đức Phật đã khuyến tấn tứ chúng rất
rõ ràng trong Hải Hội Hoa Tạng trong Kinh Hoa Nghiêm—Among the teachings given
by Sakyamuni Buddha for a certain era, only the Flower Ornament or Avatamsaka
Sutra explains “Perfect Realization in a Single Lifetime.” The basis for
perfect realization is explained in the Chapter of the “Vows of Samantabhadra
in the Ten Great Vows which show the way back to the land called “Peaceful
Nurturing” or Amitabha’s Pure Land. In Avatamsaka Sutra, the Buddha urged the
whole assembly to advance toward the Pure Land in the Flower Treasury World.
Nhất
Sát: A ksetra (skt)—Một cõi
Phật—A land—A Buddha realm—Chiliocosm.
Nhất
Sát Đa Sinh: Giết một cứu nhiều—To kill one
that many may live.
Nhất
Sát Na: A ksana (skt)—Một khoảng thời gian
ngắn nhất (1/90 của một niệm hay 1/4500 của một phút)—The shortest period of
time. (1/90th part of a thought or 1/4500th of a minute).
Nhất
Sắc: One colour—The same colour.
Nhất
Sơn: Nhà sư Trung Hoa du hành sang Nhật
vào khoảng năm 1299 AD, cũng còn gọi là Nhất Ninh—I-shan, a Chinese monk who
voyaged to Japan in 1299 AD, also called I-Ning.
Nhất
Tam Muội: Ekagra (skt)—Undeflected
concentration—Meditation on one object—Undefeated concentration.
Nhất
Tánh Tông: Nhất Tánh Tông trong Phật giáo Đại
thừa quyết đoán rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau—Monophysitic
or Pantheistic sect of Mahayana, which assert that all beings have one and the
same nature with all Buddhas.
Nhất
Tăng Nhất Giảm: Kiếp tăng từ 10 lên đến 80.000
năm, rồi lại giảm xuống còn 10—A kalpa during which a human lifetime increases
from ten years to 80.000 years and then decreases back to ten.
Nhất
Tâm: Citta-nupassana (p)—Contempaltion
of mind.
1) Bằng tất cả tâm trí: Unanimous (Unanimity)—In agreement—In
chorus—With the whole mind or heart—The bhutatathata.
2) See Nguyên Tâm and Sâm La Vạn Tượng Chi Tâm.
Nhất
Tâm Bao Trùm Bốn Cõi: This single mind encompasses the
four kinds of lands in their totality:
1) Phàm Thánh đồng cư độ: Cõi phàm Thánh cùng ở chung với
nhau—The land of common residence of beings and saints.
2) Phương tiện hữu dư độ: Cõi của phương tiện—The land of
expediency.
3) Thật báo vô chướng ngại độ: Cõi của thực báo không còn
chướng ngại—The land of true reward.
4) Thường tịch quang độ: Cõi của ánh sáng tịch tịnh miên
viễn—The land of eternally tranquil light.
Nhất
Tâm Bất Loạn: Một tâm không loạn động—One mind
unconfused.
Nhất
Tâm Kim Cang Bảo Giới: See Nhứt Tâm Kim Cang Bảo Giới,
Kim Cang Bảo Giới, and Bốn Mươi Tám Giới Khinh.
Nhất
Tâm Tam Hoặc: Đồng thể tam hoặc—Theo trường phái
Thiên Thai thì tâm của vị Bồ Tát có ba mối nghi hoặc làm nẩy sanh kiến tư, trần
sa và vô minh—The T’ien T’ai “three doubts” in the mind of a Bodhisattva which
produce:
1) Kiến tư: Sợ bị ảo tưởng—Fear of illusion.
2) Trần sa: Rối loạn vì trách vụ tư bề—Confusion through
multiplicity of duties.
3) Vô minh: Sợ vì vô minh—Ignorance.
Nhất
Tâm Tam Quán: See Nhứt Tâm Tam Quán.
Nhất
Tâm Tam Trí: See Nhứt Tâm Tam Trí.
Nhất
Tâm Thấy Phật: Muốn thấy Phật, hành giả phải
trước tiên loại trừ hay bỏ những lôi cuốn qua một bên như lo âu, sở hữu, tài
sản, con cái, gia đình, vân vân—To see the Buddha, cultivators should first
eliminate or put all distractions aside such as worry, possessions, properties,
children, family, etc.
Nhất
Tâm Tu Phật: See A true and single-minded
devotion towards the Buddha.
Nhất
Tâm Tức Nhất Thiết Tâm: See Nhứt
Tâm Tức Nhứt Thiết Tâm.
Nhất
Tâm Xưng Danh: Nhất tâm trì niệm hồng danh Phật A
Di Đà hay Bồ Tát Quán Thế Âm—With undivided mind to call on the name of a
Buddha, either Amitabha or Kuan Shi Yin.
Nhất
Tăng Nhất Giảm: See Nhứt Tăng Nhứt Giảm.
Nhất
Tề: Together like one.
Nhất
Thành Nhất Thiết Thành: Với sự
đại giác của Như Lai, tất cả chúng sanh rồi đây sẽ đạt thành đại giác. Một
người toàn thiện mọi người rồi đây sẽ được toàn thiện—With the Tathagata’s
enlightenment all beings were enlightened—In the perfection of one all are
perfected—One deed includes all.
Nhất
Thần Giáo: Monotheism—Chủ nghĩa nhất thần
giáo.
Nhất
Thật: Chân lý tối thượng—The one
reality—The bhutatathata—The supreme fact, or ultimate reality.
Nhất
Thật Cảnh Trí: Theo Giáo Sư Soothill trong Từ
Điển Phật Học Trung Hoa—According to Professor Soothill in the Dictionary of
Chinese Buddhist Terms:
1) Trạng thái nhất thật: The state or realm of “one
reality.”
2) Sự chứng ngộ thật tánh của chư pháp: The realization of the
spirituality of all things.
3) Như Lai pháp thân: The Tathagata-dharmakaya.
Nhất
Thật Thừa: Thừa chân thật (cứu độ chúng
sanh)—The one method of salvation.
Nhất
Thật Tướng: Tướng chân như—The state of
bhutatathata.
1) Vượt trên mọi sai biệt: Above all differentiation.
2) Bất chuyển: Immutable.
3) Ám chỉ Phật tánh: It implies the Buddha-nature.
4) Ám chỉ tính phi vật chất và đồng nhất của vạn hữu: It
implies the immateriality and unity of all things.
Nhất
Thật Viên Thừa (trong Kinh Pháp Hoa):
Như Lai Viên Thừa—Tathagata’s Perfect Vehicle (in the Lotus Sutra).
Nhất
Thật Viên Tông: The One Real and Perfect School.
Nhất
Thật Vô Tướng: Vô tướng là một sự thật không thể
phân cách được—The one reality being indivisible is apart from all transient
(or empty) forms, and is therefore styled the formless—The invisible.
Nhất
Thế: Một đời—Lifetime.
Nhất
Thể: Dù tướng có khác, tánh vẫn
đồng—Though externally differing, in nature the same.
Nhất
Thể Tam Thân Tự Tánh Phật: In one’s
own body to have the Trikaya.
Nhất
Thiên: Sahasra (skt)—Một ngàn—One
thousand.
Nhất
Thiên Nhị Bách Công Đức: Một ngàn
hai trăm công đức trong Kinh Pháp Hoa—One thousand two hundred merits or
powers of eye, tongue and mind predicted in the Lotus sutra.
Nhất
Thiết: All—The whole—Altogether.
Nhất
Thiết Biến Trí Ấn: See Nhất thiết Phật tâm ấn.
Nhất
thiết Bồ Tát Ma Ha Tát: All
Bodhisattvas and Mahasattvas.
Nhất
Thiết Chân Ngôn Chú: Chú “Chân Ngôn” (lời chân thật)
được phô bày trong hai nhóm Thai Tạng và Kim Cang giới—All the “true word”
rulers, shown in the Garbhadhatu and Vajradhatu groups.
Nhất
Thiết Chân Ngôn Tâm: Chữ Phạn đầu tiên “A” được người
theo phái Chân Ngôn đọc là “AN” và được nhấn mạnh như là tâm của trí huệ—The
first Sanskrit letter “A” which is pronounced “AN” by the Shingon School and
emphasized as the heart of all wisdom.
Nhất
Thiết Chúng Sanh: Tất cả chúng sanh—All sentient
beings—All living beings.
Nhất
Thiết Chúng Sanh Chi Phụ: Cha của
tất cả chúng sanh—The Father of all the living.
Nhất
Thiết Chúng Sanh Chi Từ Phụ: Ám chỉ
Đức Phật là cha hiền của tất cả chúng sanh—The Father of all the living—The
Buddha.
Nhất
Thiết Chúng Sanh Giai Tất Thành Phật Quả:
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và cuối cùng rồi cũng đạt được giác ngộ—All
beings become Buddha, for all have the Buddha-nature and must ultimately become
enlightened.
Nhất
Thiết Chúng Sanh Hoan Hỷ Kiến Phật:
Sarvasattva-priya-darsana (skt)—Vị Phật mà khi thấy mặt Ngài chúng sanh cảm
thấy hoan hỷ—The Buddha at whose appearance all beings rejoice.
Nhất
Thiết Chúng Sanh Ly Chư Ác Thú:
Sarvasattva-papa-prahana (skt)—Một loại tam muội đưa chúng sanh xa rời ác đạo—A
samadhi on a world free from all the evil destinies.
Nhất
Thiết Chúng Sanh Tinh Khí:
Sarvasattvaujohari (skt)—Tinh chất của tất cả chúng sanh—Vitality of all beings
(the quintessence or energy of all living beings).
Nhất
Thiết Chủng Diệu Tam Muội: Tam muội
mang lại mọi công đức trang nghiêm—The samadhi, which brings every kind of
merit for one’s adornment.
Nhất
Thiết Chủng Trí: See Nhất thiết chủng diệu tam muội
in Vietnamese-English Section.
Nhất
Thiết Chủng Thức: Thức thứ tám trong Bát Thức—The
eighth consciousness of eight consciousness.
Nhất
Thiết Chư Pháp: See Nhất thiết pháp in
Vietnamese-English Section.
Nhất
Thiết Chư Phật: Tất cả các Đức Phật—All Buddhas.
Nhất
Thiết Chư Phật Mười Phương Tam Thế:
Tất cả các Đức Phật trong mười phương ba đời—Buddhas from ten directions from
past, present and future.
Nhất
Thiết Giai Thành Phật: Mọi chúng sanh đều sẽ thành Phật
vì ai cũng có sẳn Phật tánh—All beings become Buddhas, for all have the
Buddha-nature and must ultimately become enlightened.
Nhất
Thiết Hữu: Sarvabhava (skt)—Tất cả vạn
hữu—All things or beings.
Nhất
Thiết Hữu Bộ: Sarvastivadah (skt).
(A) Trường phái “Thực Hữu” (người ta cho rằng La Hầu La chính là
sơ tổ của trường phái nầy). Trường phái nầy chủ trương vạn hữu đều là thực hữu.
Nhất Thiết Hữu Bộ, vì bắt nguồn từ Thượng Tọa Bộ chánh truyền, xướng lên một
bác nạn nghiêm khắc và thừa nhận rằng quá khứ và vị lai đều là thực hữu, bởi vì
hiện tại có căn để của nó trong quá khứ và hậu quả của nó trong vị lai. Ngoài
ra, phái nầy còn chủ trương rằng ba giai đoạn của thời gian phải hiện hữu tách
rời nhau, vì những khái niệm về quá khứ và vị lai sẽ không xuất hiện trong
chúng ta nếu không có những thực tại phân ly. Trong số các trường phái Phật
Giáo dùng chữ Phạn thì Nhất Thiết Hữu Bộ gần với Thượng Tọa Bộ nhất. Với sự suy
thoái của Thượng Tọa Bộ tại Ấn Độ thì trường phái Hữu Bộ phải đứng hàng đầu
trong cuộc chiến với phái Đại Thừa Luận sư Thế Thân (Vasubandhu), người đã viết
bộ A Tỳ Đàm Câu Xá Luận, là một gương mặt lớn trước khi ngã sang phái Đại Thừa
dưới ảnh hưởng của người anh là Vô Trước (Asanga). Trường phái nầy phát triển
mạnh tại Ấn Độ, trong các vùng Punjab và tỉnh biên giới phía bắc, nay là
Pakistan, và hoàng đế Ca Ni Sắc Ca là một nhà bảo trợ lớn cho trường phái nầy
(see Ca Ni Sắc Ca). Giống như trường phái Thượng Tọa Bộ, phái nầy không công
nhận những quyền năng siêu nhiên mà Đại Chúng Bộ gán cho Đức Phật cùng
các Bồ Tát. Họ tin rằng chư Thiên là những người có cuộc sống thần thánh, và ngay
cả những người ngoại đạo cũng có thể có những quyền năng siêu nhiên. Họ tin là
có thân trung ấm, một sự tồn tại giữa đời nầy và đời tiếp theo. Họ cho rằng Bồ
Tát và A La Hán cũng không thoát khỏi hậu quả của nghiệp trong quá khứ. Họ tin
rằng không có một chất liệu trường cửu nào trong con người, dù rằng họ thừa
nhận thực tại trường cửu của vạn pháp. Cũng như Thượng Tọa Bộ, họ tin vào sự đa
nguyên của các yếu tố trong vũ trụ. Theo họ thì có 75 pháp, trong đó có 72 pháp
hữu vi, có sanh có diệt, là những hợp thể; và ba pháp vô vi, không sinh
không diệt, đó là hư không (akasa), đoạn diệt nhờ trí tuệ
(pratisankhya-nirodha), và đoạn diệt không nhờ trí tuệ, mà do quá trình tự
nhiên vì thiếu nhân duyên (apratisankhya-nirodha—The Realistic School (claimed Rahula
was the founder) which asserted the reality of all phenomena. The Sarvastivada
School has its origin in the orthodox Theravada School, raises a rigorous
objection and asserts that the past and the future are real, because the
present has its root in the past and its consequence in the future. Besides, it
holds that the three periods of time ought to exist separately, because the
notions of past and future would not occur in us without separate realities.
Among the Buddhist schools which adopted Sanskrit for their literary medium,
the Sarvastivadins come closest to the Sthaviravadins. With the decline of the
Sthaviravadins in India this school bore the brunt of the battle against the
Mahayanists. Acarya Vasubandhu, the writer of the Abhidharma-kosa, was a great champion
of this school before he was converted to Mahayanism under the influence of his
brother Asanga. This school flourished in India in the Punjab and the
North-West Frontier Province, now in Pakistan, and king Kanishka, in the first
century A.D., was its great patron (see Ca Ni Sắc Ca in Vietnamese-English
Section). This school, like the Sthaviravadins, denied the transcendent powers
ascribed to the Buddha and the Bodhisattva by the Mahasanghikas. It was their
faith that holy life was possible for gods and that even heretics could have
supernatural powers. They believed in the antara-bhava, an interim existence
between this life and the next. They maintained that Bodhisattvas and Arhats
were not free from the effects of past actions. They believed in the absence of
any permanent substance in an individual (nairatmya), though they admitted the
permanent reality of all things. Like the Sthaviravadins, they believed in the
plurality of elements in the universe. According to them, there were
seventy-five elements, seventy-two of them compounded (samskrta) and three
uncompounded (asamskrta), which were akasa or space, cessation through
knowledge (pratisankhya-nirodha), and cessation not through knowledge, but
through natural process of the absence of required conditions
(apratisankhya-nirodha)—See Bảy Mươi Lăm Pháp Câu Xá Tông.
(B) Lịch sử và sự phát triển của Nhất Thiết Hữu Bộ—History and
development of the Sarvastivada School: (Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong
Cương Yếu Triết Học Phật Giáo—According to Prof. Junjiro Takakusu in the
Essentials of Buddhist Philosophy).
1) Sự có mặt của Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) có thể được
nhận thấy trong lịch sử Ấn Độ, kéo dài từ cuộc kết tập kinh điển Phật Giáo dưới
thời vua A Dục (khoảng năm 200 trước Tây Lịch) cho đến khi Nghĩa Tịnh du hành
sang Ấn Độ (671-695 sau Tây Lịch). Trong tập Đối Biện (Katha-Vatthu) được soạn
thảo dưới thời vua A Dục, Hữu Bộ hình như chiếm một địa vị vững chắc giữa những
phần tử tranh biện. Cứ điểm chính của bộ phái nầy được giảng dạy trong tinh túy
của nó và cuối cùng được khai triển thành một hệ thống hoàn toàn được gọi là Tỳ
Bà Sa hay Phân Biệt Thuyết (Vaibhasika): The existence of this Sarvastivada
School can be seen in Indian history from the time of the Buddhist Council held
during Asoka’s reign (about 200 B.C.) down to the time of I-Tsing’s travel in
India (671-695 A.D.). In the Kathavatthu Controversy compiled in the time of
King Asoka, Sarvastivada seems to have occupied a strong position among the
disputing parties. The principal seat of this school was in Kashmir where
its doctrine was taught in its purity and it was finally developed into an
elaborate system known as the Vaibhasika.
2) Theo thời gian, một chi lưu khác của Phân Biệt Thuyết được
thiết lập ở Kiện Đà La và hình như rất khác biệt với phái Kashmir trong một vài
quan điểm: In time another branch of the Vaibhasika was established in Gandhara
and it seems to have differed from that of Kashmir in its opinion to some
extent.
3) Một trường địa dư của bộ phái nầy rộng lớn hơn bất cứ một bộ
phái nào khác, vì phổ biến khắp xứ Ấn Độ, đến cả vùng phía bắc là Persia, Trung
Á, và tận miền nam là Sumatra, Java, Đông Dương và toàn thể Trung Hoa: The
geographical extent of this school was much greater than that of any
other school as it was found in all India, its northern frontier, Persia,
Central Aisa, and also to the south in Sumatra, Java, Cochin-China and all of
China.
4) Nhất Thiết Hữu Bộ liên hệ chặt chẽ với bộ phái chính truyền
là Thượng Tọa Bộ. Nó tách khỏi bộ phái nầy lần đầu tiên có lẽ trước cuộc kết
tập dưới thời vua A Dục. Cái ý niệm cho rằng tất cả các pháp đều hiện
thực có thể ngược dòng từ thời đại của chính Đức Phật, bởi vì từ ngữ
“Sabha-atthi” (tất cả đều hiện thực) được thấy ngay trong Tăng Chi Bộ Kinh: The
Sarvastivada School was closely related to the orthodox Theravada School, from
which it was first separated probably before the Council of King Asoka. The
idea that all things exist may go back to the time of the Buddha himself, for
the word ‘sabban-atthi’ (all things exist) is found already in the
Samyukta-nikaya.
5) Bản văn A Tỳ Đạt Ma chính yếu của bộ phái nầy là Phát Trí
Luận (Jnanaprasthana) của Ca Đa Diễn Ni Tử (Katyayaniputra) cũng được gọi là
Bát Kiền Độ Luận (Asta-Grantha), có lẽ được tập thành rất sớm, khoảng năm 200
trước Tây Lịch. Những tác phẩm phụ theo của bộ phái nầy mà người ta gọi là Lục
Túc Luận, hình như là chú giải chuyên biệt về chủ đề chứa đựng trong đó, vẫn
còn được lưu truyền cho đến hôm nay: The principal Abhidharma text of this
school was Katyayaniputra’s Source of Knowledge (Jnana-prasthana), otherwise
called Eight Books (Asta-grantha), probably compiled as early as 200 B.C. The
subsequent works of the school, also called the Six Padas (Six Legs), seem to
have been a special exegesis (Vibhasa) on the subject-matter contained in it.
(C) Khi phán xét từ những thảo luận ghi trong văn học Đại Tỳ Bà
Sa Luận, điều vô cùng quan trọng hình như được đặt trên sự phân ly của ba thời
và thực tại chính của mỗi thời. Tuy nhiên, thực tại chính của ba thời không có
nghĩa là ba thời tự chúng thường hằng, cũng không có nghĩa là tất cả các pháp
đều thực hữu trong quá khứ và vị lai, cũng như thực hữu trong hiện tại; nhưng
không kéo dài từ thời gian nầy đến thời gian khác. Liên hệ với lý thuyết nầy có
bốn luận chứng mà ngài Thế Thân đã trích dẫn từ nền văn học Luận Tạng—Judging
from the discussions recorded in the Mahavibhasa literature, great importance
seems to have been laid on the separateness of the three periods of time and
the reality of each. The reality of the three periods of time, however, does
not mean that the three periods themselves are eternally extant, nor does it
mean that time is a real substance. It means that all things or elements are
real in the past and in the future as they are in the present, but without
enduring from one period to another. In connection with this theory, four
arguments are quoted by Vasubandhu from the Exegetic Literature—See Tứ Luận
Chứng.
(D) Theo ngài Thế Thân (Vasubandhu) trong Bảy Tác Phẩm của Ngài
Thế Thân, thuyết của Nhất Thiết Hữu Bộ không thấy có trong những giáo thuyết
thuần túy của Phật giáo, mà là một tân thuyết của nền văn học Luận Tạng của học
phái A Tỳ Đàm, chống lại Kinh Lượng Bộ là phái bám chặt vào những bài thuyết
pháp của Phật và chủ trương rằng chỉ có hiện tại là hiện hữu—According to
Vasubandhu in Seven Works of Vasubandhu, written by Stefan Anacker, the theory
of Sarvastivada is not found in the genuine discourses of the Buddha, but it is
an innovation of the Vibhasa (Exegetic) Literature of the Abhidharma School.
The opinion of the Abhidharmikas is against the Sautrantic School which clings
solely to the discourses of the Buddha and maintains that only present
exists.
(E) Các trường phái của Nhất Thiết Hữu Bộ—Branches of the
Sarvastivada:
1) Nhất Thiết Căn Bản Bộ:
Mulasvarvastivadah (skt).
2) Ca Diếp Duy Bộ: Kasyapiyah or
Suvarsakah.
3) Pháp Mật Bộ: Dharmagupta.
4) Di Sa Tắc Bộ: Mahisasakah or
Mahisasikah.
5) Phân Biệt Thuyết Bộ:
Vibhajyavadinah.
6) Đa Văn Bộ: Bà Thu Lâu Đa
Bộ—Bahusrutiyah.
Nhất
Thiết Hữu Căn Bổn: Mulasarvastivadah (skt)—Một
nhánh của trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ cho rằng vạn hữu đều có thực hữu—A
branch of the Sarvastivadin Sect which asserted the reality of things.
Nhất
Thiết Hữu Tình: Tất cả chúng sanh hữu tình—All
sentient beings.
Nhất
Thiết Hữu Tình Chúng Sanh: See Nhất
thiết chúng sanh.
Nhất
Thiết Hữu Vi: Tất cả pháp hữu vi—All
phenomena—The phenomenal (all that is prodcued by causative action—Everything
that is dynamic and not static).
Nhất
Thiết Không: Total Voidness.
1) See Không.
2) Để chứng ngộ Nhất Thiết Không, người ta phải lìa bỏ ba sự
chấp thủ—In order to realize Total Voidness, one must do away with the three
attachments—See Tam Chấp Thủ.
Nhất
Thiết Kinh: The Tripitaka—Đại Tạng Kinh—The
whole of the Buddhist Canon.
Nhất
Thiết Nghĩa Thành: Sarvarthasiddha or Siddhartha
(skt)—All wishes realized—Tên đặt cho Phật Thích Ca lúc Ngài mới đản sanh—Name
of Sakyamuni at birth.
Nhất
Thiết Nhân Trung Tôn: Tất cả những bậc được loài người
tôn kính nhất—The most honoured among men (Vairocana).
Nhất
Thiết Nhất Tâm Thức: All things are mind or mental.
Nhất
Thiết Như Lai: Sarvatathagata (skt)—Tất cả các
Đức Phật—All the Buddhas—All Tathagatas.
Nhất
Thiết Như Lai Bảo: Ngọc bảo châu của chư Như Lai
(trong pháp giới Mạn Đà La, Liên hoa bên tay trái và bảo châu bên tay mặt)—The
talismanic pearl of all Buddhas (on the Garbhadhatu mandala, lotus on the left
hand and talismanic pearl on the right hand).
Nhất
Thiết Như Lai Chư Pháp Bổn Tánh Thanh Tịnh Liên Hoa Tam Muội: Liên Hoa Tam Muội của Phật Tỳ Lô Giá Na từ đó Phật A Di Đà
được sanh ra. Như Lai thiền định, bản tánh của mọi hiện hữu đều thanh tịnh như
Liên Hoa—A lotus samadhi of Vairocana from which Amitabha was born—The
Tathagata meditation, that the fundamental nature of all existence is pure like
the lotus.
Nhất
Thiết Như Lai Định: Thiền định cao nhất được các vị Bồ
Tát tu tập—The highest samadhi practiced by bodhisattvas.
Nhất
Thiết Như Lai Kim Cang Thệ Giới:
Lời thệ nguyện nguyên thủy của Như Lai như tiếng rống của sư tử, nguyện rằng
tất cả chư chúng sanh rồi sẽ trở thành như Như Lai—The original oath of every
Tathagata (with the roar of a lion, he declares that all creatures shall become
as himself).
Nhất
Thiết Như Lai Nhãn Sắc Như Minh Chiếu Tam Ma Địa: Một loại tam muội của Phật Tỳ Lô Giá Na, trong đó ánh
quang nhãn sắc của Như Lai chiếu khắp—A Vairocana-samadhi in which the
light of the Tathagata-eye streams forth radiance.
Nhất
Thiết Như Lai Tâm Định Ấn: Dấu hiệu
đạt được Phật quả—The sign of the assurance of attaining Buddhahood.
Nhất
Thiết Như Lai Trí Ấn: Dấu hiệu trí tuệ của chư Phật—A
sign of the wisdom of all Buddhas (a triangle on a lotus in the Garbhadhatu
group).
Nhất
Thiết Pháp: Sarvadharma (skt)—Tất cả các sự
vật, sự hiện hữu—All things, laws, existence, or beings.
Nhất
Thiết Pháp Bất Sinh: Sarvadharma-anutpada (skt)—Mọi vật
đều không sanh—All things are unborn.
Nhất
Thiết Pháp Giới Quyết Định Trí Ấn:
Chân ngôn bảo chứng của Phật Tỳ Lô Giá Na, một biểu tượng qua đó mọi chúng sanh
đều có thể đạt được trí huệ chắc chắn của Phật—The true word of assurance of
Vairocana, the symbol through which all may attain the sure Buddha-wisdom.
Nhất
Thiết Pháp Giới Sinh Ấn: Một
trong ba dấu hiệu của Mạn Đà La—One of the three signs of the mandala (the sign
of producing all things or realms).
Nhất
Thiết Pháp Giới Tự Thân Biểu:
Sự tự hiện thân của Phật—The Buddha’s self-manifestation to all creation.
Nhất
Thiết Pháp Hữu Vi: Tất cả pháp sanh diệt—All
phenomena—All that is produced by causative action—Everything that is dynamic,
not static.
Nhất
Thiết Pháp Không: Sarvadharma-sunyata (skt)—Cái
không của tất cả sự vật—The emptiness or unreality of all things.
Nhất
Thiết Pháp Không Vô Sinh Vô Nhị Vô Tự Tính Tướng:
Sarvadharmanam-sunyata-anutpada-advaya-nihsvabhava-lakshana (skt)—Khía cạnh
hiện hữu trong đó tất cả các sự vật được xem là không, không được sinh ra,
không phải hai, và không có tự tính—The aspect of existence in which all things
are to be regarded as empty, unborn, non-dual, and without
self-substance.
Nhất
Thiết Pháp Vô Ngã: Sarvadharma-niratmanah (skt)—Tất
cả các sự vật đều không có tự ngã—All things are egoless.
Nhất
Thiết Phật Hội: The assembly of all Buddhas. There
are two kinds:
1) Thai Tạng giới: Garbhadhatu.
2) Kim Cang giới: Vajradhatu.
Nhất
Thiết Phật Tâm Ấn: Trikona (skt)—Dấu hiệu trên ngực
Như Lai (Phật Tỳ Lô Giá Na). Dấu hiệu về tâm (tam giác lửa trên bông sen trắng,
màu trắng tinh biểu tượng cho trí huệ, đỉnh tam giác chỉ xuống chỉ sức mạnh đốt
cháy dục vọng và cám dỗ)—The sign on a Buddha’s breast (on Vairocana)—The sign
of Buddha-mind (a triangle of flames above a white lotus, pure white color
representing wisdom, pointing downwards to indicate power over or burn up all
passions, opposition, temptations)—The sign of omniscience.
Nhất
Thiết Phổ Môn Thân: Vị trải thân ra khắp bốn pháp
giới—The one who completely fills the four realms (Dharmadhatu).
Nhất
Thiết Thí: Sarvada (skt)—Toàn
trí—All-bestowing—One who who gives his all.
Nhất
Thiết Trí: Sarvajnana
(skt)—Buddha-wisdom—Perfect knowledge—Omniscience—All-knowing.
Nhất
Thiết Trí Địa: Nơi mà chư Bồ Tát đạt được Phật
trí—The state or place for Perfect knowledge or Buddha-wisdom.
Nhất
Thiết Trí Huệ Giả: The all-wise one (Vairocana).
Nhất
Thiết Trí Tâm: The Buddha’s wisdom mind.
Nhất
Thiết Trí Thiên: Sarvajnadeva (skt)—The deva of
universal wisdom.
Nhất
Thiết Trí Trí: Trí tuệ của chư Phật (bồ đề, toàn
giác và thanh tịnh)—The wisdom of all wisdom—Buddha’s wisdom (bodhi, perfect
enlightenment and purity).
Nhất
Thiết Vạn: All things.
Nhất
Thiết Vạn Pháp: All things—See Nhất Thiết Pháp.
Nhất
Thiết Vật: All things.
Nhất
Thiết Vô Chướng Ngại: Hoàn toàn thoát khỏi mọi chướng
ngại—Absolutely free or unhindered—Illimitable—Universal.
Nhất
Thiết Vô Chướng Pháp Ấn Minh:
Một dấu hiệu để vượt thắng chướng ngại—A sign for overcoming all hindrances (by
making the sign of a sword through lifting both hands, palms outward and thumbs
joined, saying Hail ! Bhagavat ! Bhagavatsvaha !).
Nhất
Thiết Vô Ngại: Hoàn toàn thoát khỏi mọi chướng
ngại—Absolutely free or unhindered.
Nhất
Thiết Xứ: Samanta (skt)—Everywhere—Universal
dhyana.
Nhất
Thiết Xứ Vô Bất Tương Ưng Chân Ngôn:
Chân ngôn tương ưng khắp nơi nơi—The “true word” that responds everywhere.
Nhất
Thời:
1) Một thuở nọ—Thus I have heard—A session of expounding a
sutra.
2) Provisional—Temporary.
Nhất
Thốn Quang Âm Nhất Thốn Kim: Thời giờ
là tiền bạc—Time is money.
Nhất
Thủy Tứ Kiến: Chúng sanh nhìn nước qua 4
cách—The same water may be viewed in four ways:
1) Cõi trời nhìn nước như đất bảo thạch: Devas see it as
bejewelled land.
2) Người nhìn nước như nước: Men see it as water.
3) Ngạ quỷ nhìn nước như máu mủ: Hungry ghosts see it as pus
and blood.
4) Cá nhìn nước như một nơi để sống: Fish sees water as a place
to live in.
Nhất
Thuyết Bộ: Ekavyavaharika (skt)—Trường phái
Tiểu thừa cho rằng vạn hữu giả định chứ không có thực thể—Hinayana school
(nominalistic) which considered things as nominal without underlying reality.
Nhứt
Thừa: Ekayana (skt)—One Vehicle or
Vehicle of Oneness.
1) Nhứt Phật thừa: Đại Thừa và Nhất Thừa được dùng đồng nghĩa
với nhau trong tất cả kinh điển Đại Thừa. Cái ý niệm xem giáo lý của Đức Phật
là một phương tiện chuyên chở đã nảy ra từ ý niệm vượt thoát qua dòng luân hồi
sanh tử để đạt đến bến bờ Niết Bàn bên kia. Trong Kinh Lăng Già, khi Mahamati
hỏi Đức Phật tại sao Ngài lại thuyết giảng Nhất Thừa, Đức Phật nói: “Không có
cái chân lý đại tịch diệt nào được đạt bởi hàng Thanh Văn hay Duyên Giác do tự
chính họ; do đó, Ta không thuyết giảng cho họ về Thừa của nhất thể. Sự giải
thoát của họ chỉ có thể được hình thành nhờ sự dẫn dắt, khai thị, dạy dỗ và
điều khiển của Như Lai; sự giải thoát ấy không xãy ra do một mình họ. Họ chưa
thể tự làm cho họ thoát khỏi sự trở ngại của tri thức và sự vận hành của tập
khí; họ chưa thể chứng cái chân lý rằng không có tự tính trong mọi sự vật, cũng
chưa đạt đến cái chết biến hóa không thể quan niệm được (bất khả tư nghì biến
dị tử). Vì lý do nầy nên Ta chỉ thuyết giảng Nhất Thừa cho hàng Thanh Văn, khi
cái tập khí tệ hại của họ được tẩy sạch, khi họ thấy suốt bản chất của tất cả
các sự vật vốn không có tự tính, và khi họ giác tính khỏi cái kết quả gây mê
đắm của tam ma địa phát xuất từ tập khí tệ hại, thì họ vượt khỏi trạng thái của
các vô lậu. Kho họ tỉnh giác như thế, họ sẽ tự cung cấp cho mình những thức ăn
tinh thần trên cùng một bình diện vượt khỏi trạng thái của các vô lậu mà bấy
lâu nay họ vẫn trụ ở đấy.”—One Yana—The Vehicle of oneness—The one
Buddha-Yana—The One Vehicle. Mahayana and Ekayana are used synonymously in all
the Mahayana texts. The idea of considering the Buddha’s teaching as an
instrument of conveyance was doubtless suggested by that of crossing the stream
of Samsara and reaching the other side of Nirvana. In the Lankavatara
Sutra, when Mahamati asked the Buddha the reason why He did not speak of the
Vehicle of Oneness, the Buddha said: “There is no truth of Parinirvana to be
realized by the Sravakas and Pratyeka-buddhas all by themselves; therefore, I
do not preach them the Vehicle of Oneness. Their emancipation is made
possible only by means of the Tathagata’s guidance, discretion, discipline, and
direction; it does not take place by them alone. They have not yet made
themselves free from the hindrance of knowledge (jneyavarana) and the working
of memory; they have not yet realized the truth that there is no self-substance
in anything, nor have they attained the inconceivable transformation-death
(acintyaparinamacyuti). For these reasons I do not preach the Vehicle of
Oneness. I will only preach the Ekayana to the Sravakas when their evil habit
of memory is all purgated, when they have an insight into the nature of all
things that have no self-substance, and when they are awakened from the
intoxicating result of Samadhi which comes from the evil habit of memory, they
rise from the state of non-outflowings. When they are thus awakened, they will
supply themselves with al the moral provisions on a plane which surpasses the
state of non-outflowings where they have hitherto remained.”
2) Đức Phật thường được so sánh với một đại lương y có thể chữa
lành mọi thứ bệnh bằng cách chữa trị tinh diệu. Theo y học, cũng cùng một
nguyên tắc độc nhất, nhưng ở trong tay của một bác sĩ giàu kinh nghiệm thì có
nhiềusự áp dụng khác nhau. Giáo lý của Đức Phật không thay đổi theo thời gian
và không gian, có một sự ứng dụng phổ quát; nhưng vì người thọ nhận khác nhau
về tâm tính, học tập và di truyền nên họ hiểu giáo lý theo những cách khác nhau
và nhờ đó mà mỗi người được chữa lành căn bệnh tinh thần riêng của mình. Đây là
một nguyên lý có thể áp dụng một cách phổ quát và vô cùng, được gọi là “Nhất
Thừa,” hay “Đại Thừa.” Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật dạy: “Giáo lý của Ta không
bị phân chia, nó vẫn luôn luôn là một và vẫn là nó, nhưng do bởi các ham muốn
và khả năng của chúng sanh vốn khác nhau đến vô cùng, nên cũng có thể biến đổi
đến vô cùng. Chỉ có một Thừa mà thôi, và Bát Chánh Đạo luôn nhắc nhở.”—The
Buddha is often compared to a great physician who can cure every sort of
illness by skilful treatment. As far as the science of medicine goes,
there is just one principle which, however, in the hands of an experienced
doctor finds a variety of applications. The Teaching of the Buddha does not
vary in time and space, it has a universal application; but as its recipients
differ in disposition and training and heredity they variously understand it
and are thereby cured each of his own spiritual illness. This one principle
universally and infinitely applicable is known as “One Vehicle” or “Great
Vehicle.” In the Lankavatara Sutra, the Buddha taught: “My teaching is not
divided, it remains always one and the same, but because of the desires and
faculties of beings that are infinitely varied, it is capable also of infinite
variation. There is One Vehicle only, and refreshing is the Eightfold Path of
Righteousness.”
3) Ngoài Nhất Thừa, Nhị Thừa, các kinh điển Đại Thừa còn nói
đến Tam Thừa, gồm Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát. Tuy nhiên, chúng ta phải
nhớ rằng Nhất Thừa kỳ thật chẳng dính dáng gì đến số “Thừa,” vì “Eka” có nghĩa
là “một,” và trong trường hợp nầy nó có nghĩa là “Nhất Thể,” và “Ekayana” chỉ
cái học thuyết dạy về sự nhất thể của các sự vật, qua đó tất cả chúng sanh kể
cả Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều được cứu khỏi sự ràng buộc của hiện hữu—Besides
this Ekayana and Dviyana, the Mahayana sutras genrally speaks of Triyana, which
consists of the Sravakayana, Pratyeka-buddha-yana, and Bodhisattvayana. But we
must remember that the Ekayana has really nothing to do with the number of
yanas though “eka” means “one.” Eka in this case rather means “oneness,” and
“Ekayana” is the designation of the doctrine teaching the transcendental
oneness of things, by which all beings including the Hinayanists and
Mahayanists are saved from the bondage of existence.
4) Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật nói: “Ta thuyết giảng Tam
Thừa, Nhị Thừa, Nhất Thừa và Vô Thừa, nhưng tất cả các thừa ấy đều nhằm cho
phàm phu, kẻ sơ trí, và cho những kẻ mê đắm trong sự thọ hưởng sự tịch tịnh.
Cánh cửa của chân lý tối hậu thì vượt khỏi cái nhị biên của tri thức. Hễ khi
nào tâm còn sinh khởi thì những thừa nầy không thể nào bỏ đi được. Khi tâm kinh
nghiệm sự đột biến thì sẽ không có xe mà cũng không có người lái xe.”—In the
Lankavatara Sutra, the Buddha said: “I preach the Triple Vehicle, the One
Vehicle, and No-Vehicle, but they are all meant for the ignorant, the little
witted, and for the wise who are addicted to the enjoyment of quietude. The
gate of the ultimate truth is beyond the dualism of cognition. As long as mind
evolves, these vehicles canot be done away with; when it experiences a
revulsion (paravritti), there is neither vehicle nor driver.
5) Cách để thể chứng con đường của Nhất Thừa là hiểu rằng quá
trình của nhận thức là do bởi phân biệt; khi sự phân biệt nầy không còn xãy ra
nữa, và khi người ta trú trong cái như như của các sự vật thì có sự thể chứng
cái Nhất Thừa của Nhất Thể. Thừa nầy chưa được ai thể chứng bao giờ, chưa được
thể chứng bởi hàng Thanh Văn, Duyên Giác, hay Bà La Môn, ngoại trừ chính Đức
Phật—The way to realize the path of the Ekayana is to understand that the
process of perception is due to discrimination; when this discrimination no
longer takes place, and when one abides in the suchness of things, there is the
realization of the Vehicle of Oneness. This Vehicle has never been realized by
anybody, not by the Sravakas, not by the Pratyeka-buddhas, nor by the Brahmans,
except by the Buddha himself.
Nhất
Thừa Bồ Đề: Nhất thừa giác ngộ—The One-Vehicle
enlightenment.
Nhất
Thừa Chi Bảo: See Nhứt Thừa Chi Bảo.
Nhất
Thừa Cứu Cánh Giáo: Nhất thừa viên giáo được tìm thấy
trong Kinh Pháp Hoa—The One vehicle in its final teaching, as found in the
Lotus Sutra.
Nhất
Thừa Diệu Điển: Toàn thiện Đại thừa quyết đoán chỉ
một con đường cứu độ trong Kinh Liên Hoa—The Perfect Mahayana which declares
one way of salvation—The Lotus Sutra.
Nhất
Thừa Gia: The one-vehicle family or sect.
Nhất
Thừa Hiển Tánh Giáo: One of the five divisions of the
Avatamsaka School.
Nhất
Thừa Kinh: See Nhất Thừa Diệu điển.
Nhất
Thừa Pháp Môn: The one-vehicle method as revealed
in the Lotus Sutra.
Nhất
Thừa Phật: The one Buddha-Yana
Nhất
Thừa Viên Tông: Lotus school of the perfect
teaching (One Vehicle—Thiên Thai Tông).
Nhất
Thức: Tông Thành Thực cho rằng vạn hữu
duy tâm—The Satyasiddhi Sect considered that all things are just one mind.
Nhất
Thực: The one reality (bhutatathata)—See
Nhứt Thực.
Nhất
Thực Cảnh Giới: Cảnh giới chân như bất biến và
vượt trên mọi phân biệt. Phật tánh là phi vật chất và là đồng nhất của chư
pháp—The state or realm of bhutatathata (reality) which is above all
differentiation, immutable. It’s the Buddha-nature or the immateriality and
unity of all things—The realization of spirituality of all things—Như Lai pháp
thân (The Tathagata-dharmakaya).
Nhất
Thực Thừa: The one method of salvation.
Nhất
Thực Tướng: See Nhất Thật Cảnh Giới, and Nhứt
Thực Tướng.
Nhất
Thực Viên Thừa: The Tathagata’s perfect vehicle.
Nhất
Thực Viên Tông: The one real and perfect school.
Nhất
Thực Vô Tướng:
1) The one reality being indivisible is apart from all
transient (or empty) forms—Formless—Invisible.
2) The invisible—The one reality being indivisible is aprt from
all transient forms, and therfore styled the formless.
Nhất
Tiển Đạo: Đường tên bay—An arrow’s flight.
Nhất
Tiếu: A smile.
Nhất
Tiểu Kiếp: A small kalpa—Thời kỳ phát triển
và hoại diệt của vũ trụ—A period of the growth and decay of a universe—See Nhất
Tăng Nhất Giảm.
Nhất
Tọa Thực: Mỗi ngày chỉ ăn một buổi trước
ngọ—One meal a day, taken before noon.
Nhất
Trần: A grain of dust—Một hạt bụi—An
atom—A particle.
Nhất
Trần Pháp Giới: Cả pháp giới trong một nguyên tử,
cả vũ trụ trong nhất trần—The whole in an atom, a universe in a grain of
dust—Nhất trần là một vi vũ trụ của toàn vũ trụ—One grain of dust is a
microcosmo of the universe whole.
Nhất
Trí: Cùng nhau đồng ý—Unanimous—In
chorus.
Nhất
Trì: To adhere to one Buddha and one
sutra.
Nhất
Trung Nhất Thiết Trung: See Nhứt
trung nhứt thiết trung.
Nhất
Túc Giác: Overnight Enlightenment—Một ngày
nọ sư Huyền Giác đi thăm Lục Tổ Huệ Năng. Lần đầu tiên gặp Tổ, sư tay cầm tích
trượng vai mang bình bát đi nhiễu Tổ ba vòng, đoạn đứng thẳng. Tổ thấy thế bèn
nói, “Phàm sa môn có đủ ba ngàn uy nghi tám muôn tế hạnh. Đại Đức người phương
nào đến mà sanh đại ngã mạn như vậy?” Huyền Giác thưa, “Sanh tử là việc lớn, vô
thường qua nhanh quá.” Tổ bảo, “Sao không ngay nơi đó thể nhận lấy vô sanh,
liễu chẳng mau ư?” Huyền Giác thưa: “Thể tức vô sanh, liễu vốn không mau.” Tổ
khen, “Đúng thế! Đúng thế!” Lúc đó đại chúng nghe nói đều ngạc nhiên. Sư bèn
đầy đủ oai nghi lễ tạ tổ. Chốc lát sau sư xin cáo từ. Tổ bảo, “Trở về quá
nhanh!” Huyền Giác thưa, “Vốn tự không động thì đâu có nhanh.” Tổ bảo, “cái gì
biết không động?” Huyền Giác thưa, “Ngài tự phân biệt.” Tổ bảo, “Ngươi được ý
vô sanh rất sâu.” Huyền Giác thưa, “Vô sanh mà có ý sao?” Tổ bảo, “Không ý, cái
gì biết phân biệt?” Huyền Giác thưa, “Phân biệt cũng không phải ý.” Tổ khen,
“Lành thay! Lành thay!” Sư ở lại Tào Khê một đêm để hỏi thêm đạo lý. Sáng hôm
sau sư trở về Ôn Giang, nơi mà chúng đệ tử đang chờ ông để học đạo. Thời nhơn
từ đó gọi sư là “Nhất Túc Giác” hay một đêm giác ngộ—One day Hsuan-Chieh went
to Cao-Xi to visit the Sixth Patriarch. Upon his first meeting with Hui Neng,
Hsuan-Chieh struck his staff on the ground and circled the Sixth Patriarch
three times, then stood there upright. The Sixth Patriarch said, “This monk
possesses the three thousand noble characteristics and the eighty thousand fine
attributes. Oh monk! Where have you come from? How have you attained such
self-possession?” Hsuan-Chieh replied, “The great matter of birth and death
does not tarry.” The Sixth Patriarch said, “Then why not embody what is not
born and attain what is not hurried?” Hsuan-Chieh said, “What is embodied is
not subject to birth. What is attained is fundamentally unmoving.” The Sixth
Patriarch said, “Just so! Just so!” Upon hearing these words, everyone among
the congregation of monks was astounded. Hsuan-Chieh then formally paid his
respect to the Sixth Patriarch. He then advised that he was immediately
departing. The Sixth Patriarch said, “Don’t go so quickly!” Hsuan-Chieh said,
“Fundamentally there is nothing moving. So how can something be too quick?” The
Sixth Patriarch said, “How can one knows there’s no movement?” Hsuan-Chieh
said, “The distinction is completely of the master’s own making.” The Sixth
Patriarch said, “You have fully attained the meaning of what is unborn.”
Hsuan-Chieh said, “So, does what is unborn have a meaning?” The Sixth Patriarch
said, “Who makes a distinction about whether there is a meaning or not?”
Hsuan-Chieh said, “Distinctions are meaningless.” The Sixth Patriarch shouted,
“Excellent! Excellent! Now, just stay here a single night!” Thus people
referred to Hsuan-Chieh as the “Overnight Guest.” The next day Hsuan-Chieh
descended the mountainand returned to Wen-Chou, where Zen students gathered to
study with him.
Nhất
Tự: One word.
Nhất
Tự Kim Luân Đảnh Pháp: The one word golden wheel magical
method (Chân ngôn).
Nhất
Tự Kim Luân Phật Đảnh Pháp: See Nhất
Tự Kim Luân Đảnh Pháp.
Nhất
Tự Tam Lễ: Mỗi chữ viết về Phật pháp đều phải
lễ bái Tam Bảo—In writing Buddhist scriptures, at each writing thrice to pay
homage to the Triratna.
Nhất
Tự Thiền: A cryptic single-word reply to a question,
requiring meditation for its apprehension. It is Zen or Ch’an method.
Nhất
Tự Văn Thù: The single-word Manjusri.
Nhất
Tức: Một hơi thở—A breath
(inspiration-expiration).
Nhất
Tức Bán Bộ: Một hơi thở đi nửa bước—Half a
step at a breathing on arising from meditation.
Nhất
Tức Nhất Thiết, Nhất Thiết Tức Nhất:
Một là tất cả, tất cả là một—One is all and all is one (the essential unity of
all things).
Nhất
Tướng: Laksana (skt)—One aspect—The
unique form—The one mind in all things—Common mind in all beings.
Nhất
Tướng Pháp Môn: The unitary or monistic method
where all is seen as a unity.
Nhất
Tướng Tam Muội (chân như tam muội):
A sammadhi for realizing that the nature of all Buddhas is the same.
Nhất
Tướng Tam Muội Nhất Hạnh Tam Muội:
The Samadhi of One Mark and the Samadhi of One Conduct—Theo Kinh Pháp Bảo Đàn,
Phẩm thứ Mười, Lục Tổ nhắn với tứ chúng rằng—According to the Dharma Jewel
Platform Sutra, Chapter Tenth, the Sixth Patriarch told the assembly: “Các
thiện tri thức! Các ông mỗi người nên tịnh tâm lắng nghe tôi nói pháp, nếu muốn
thành tựu chủng trí phải đạt được nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội.
Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng kia, không sanh yêu ghét,
cũng không thủ xả, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại, vân vân, an nhàn
điềm tịnh, hư dung đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam muội. Nếu ở tất cả chỗ đi
đứng nằm ngồi thuần một trực tâm, không động đạo tràng, chơn thành Tịnh độ, đây
gọi là nhất hạnh tam muội. Nếu người đủ hai tam muội nầy như đất đã có chứa hạt
giống, nuôi dưỡng lớn lên, thành thục được hạt kia, nhất tướng nhất hạnh
cũng lại như thế. Nay tôi nói pháp ví như khi mưa ướt khắp cả quả đất, Phật
tánh của các ông ví như hạt giống gặp được sự thấm ướt nầy thảy đều phát sanh,
nương lời chỉ dạy của tôi, quyết định được Bồ Đề, y theo hạnh của tôi, quyết
định chứng được diệu quả, hãy nghe tôi nói kệ:
“Đất tâm chứa hạt giống,
Mưa rưới thảy nẩy mầm,
Đốn ngộ hoa tình rồi,
Quả Bồ Đề tự thành.”
The
Master added, “All of you Good Knowing Advisors should purify your minds and
listen to my explanation of the Dharma. If you wish to realize all knowledge,
you must understand the Samadhi of one Mark and the Samadhi of One Conduct. If
you do not dwell in marks anywhere and do not give rise to hate and love, do
not grasp or reject and do not calculate advantage or disadvantage, production
and destruction while in the midst of marks, but instead, remain tranquil, calm
and yielding, then you will have achieved the Samadhi of One Mark. In all
places, whether walking, standing, sitting or lying down, to maintain a
straight and uniform mind, to attain the unmoving Bodhimandala and the
true realization of the Pure Land. That is called the Samadhi of One Conduct.
One who perfects the two samadhis is like earth in which seeds are planted;
buried in the ground, they are nourished and grow, ripening and bearing fruit.
The One Mark and One Conduct are just like that. Now, I speak the Dharma, which
is like the falling of the timely rain, moistening the great earth. Your
Buddha-nature is like the seeds, which receiving moisture, will sprout and
grow. Those who receive my teaching will surely obtain Bodhi and those who
practice my conduct certainly certify to the wonderful fruit. Listen to my
verse"
The mind-ground contains
every seeds;
Under the universal rain
they all sprout
Flower and
feeling-Sudden
Enlightenment
The Bodhi-fruit
accomplishes itself.”
Nhất
Tướng Trí: The wisdom that all is
bhutatathata and a unity.
Nhất
Tướng Vô Tướng: One-ness means none-ness (there is
no diversity).
Nhất
Vãng: See Nhứt vãng.
Nhất
Vật Bất Tương Lai (Zen): Empty-handed—Nothingness—Not
a thing to bring or carry away.
Nhất
Vi Trần: The smallest particle—An atom—A
microcosm of the universe.
Nhất
Vị: One flavour—The same flavour.
Nhất
Vô Ngại Đạo: Meditation on the one way
without barrier (the end of reincarnations in nirvana).
Nhất
Vũ: A rain—A lesson or teaching from
the Buddha.
Nhất
Xiển Đề: Icchantika or Atyantika (skt)—Đoạn
thiện căn giả, người không có ý hướng giác ngộ Phật, kẻ thù của thiện pháp.
Người cắt đứt mọi thiện căn. Nhất Xiển Đề là hạng người cùng hung cực ác, mất
hết tất cả các căn lành, không thể nào giáo hóa khiến cho họ tu hành chi được
hết. Tuy nhiên, Nhất Xiển Đề cũng áp dụng cho Bồ Tát nguyện không thành
Phật cho đến khi nào tất cả chúng sanh đều được cứu độ. Trong Kinh Lăng Già,
Đức Phật nhắc Mahamati: “Này Mahamati, vị Bồ Tát nhất xiển đề biết rằng tất cả
sự vật đều ở trong Niết Bàn từ lúc khởi thỉ, nên vẫn giữ mãi không nhập Niết
Bàn—One without desire for Buddha-enlightenment, or unable to become Buddha—An
unbeliever (unbelief or abandoned character)—An enemy of the good—One who cuts
off his roots of goodness. The Atyantika are people who are extremely evil and
wicked, having lost all senses of goodness. It is impossible to change,
transform, or influence them to take a cultivated path. However, this also
applied to a Bodhisattva who has made his vow not to become a Buddha until all
beings are saved. In the Lankavatara Sutra, he Buddha reminded Mahamati: “Oh
Mahamati, the Bodhisattva-icchantika knowing that all things are in Nirvana
from the beginning refrains forever from entering into Nirvana.”
**
For more information, please see Vô Chủng
Nhật:
1) Ngày: Surya (skt)—The sun—Day.
2) Nước Nhật: Japan.
Nhật
Bản: Nước Nhật, nơi mà Phật giáo đã
được truyền sang từ Cao Ly vào thế kỷ thứ sáu, và từ Trung Hoa vào thế kỷ thứ
bảy—Japan. Buddhism was introduced there from Korea in the sixth century, and
in the seventh century from China.
Nhật
Chủng: Surya-Vamsa (skt)—Một trong năm họ
của dòng Thích Ca. Tương truyền tổ tiên của dòng họ Thích Ca được sanh ra bởi
mặt trời từ trong cây mía hai nhánh—One of the five surnames of Sakyamuni,
sun-seed or lineage, his first ancestors having been produced by the sun from
“two stalks of sugar-cane.”
Nhật
Chủng Thiện Sanh: Suryavamsa (skt)—An ancient king
of Potala and ancestor of the Sakya line—Vị vua thời cổ của Potala và là tổ
tiên của dòng Thích Ca.
Nhật
Cung: Cung điện mặt trời, nơi trú ngụ
của Nhật Thiên Tử—The sun-palace, the abode of the sun ruler.
Nhật
Diện Phật: Nhật Diện Phật với thọ mạng là
1.800 năm, ngược lại với Nguyệt Diện Phật mà thọ mạng chỉ có một ngày một
đêm—The “Sun-Face” Buddha, whose life is 1.800 years, in contrast with the
“Moon-Face” Buddha, whose life is only a day and a night.
Nhật
Diệu: Mặt trời, một trong cửu diệu,
thuộc đoàn tùy tùng của Nhật Thiên, đông độ của Thai Tạng Giới—The sun, one of
the nine luminaries; one of the retinue of the sun ruler shown in the Eastern
part of Garbhadhatu group driving three horses—See Cửu Diệu.
Nhật
Dụng: Daily use—Daily expenses.
Nhật
Giới Đàn: The altar of the law.
Nhật
Ký: Journal—Diary.
Nhật
Liên: Nichiren (Jap)—Còn gọi là Tân Liên
Hoa Tông, một tông phái của Phật Giáo Nhật Bản do ngài Nhật Liên sáng lập. Các
tín đồ phái Nhật Liên sùng mộ tụng “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” hòa nhịp
với tiếng trống mạnh mẽ của họ—Also called New Lotus School, a branch of
Japanese Buddhism founded by Nichiren (1222-1282). Nichiren believers devotedly
recite “Namo Wonderful Dharma Lotus Sutra” to the vigorous accompaniment of
their own drum-beating.
1) Sư Tổ của phái Nhật Liên vào khoảng năm 1222 sau Tây Lịch.
Nhật Liên là con của một ngư phủ ở Kominato, Awa, miền nam duyên hải Nhật Bản.
Năm 15 tuổi, sư xuất gia và được gởi đến Thanh Từng, một ngôi già lam gần nhà
để làm tiểu. Thắc mắc sớm nhất của sư là: “Thế nào là sự thật mà Đức Phật đã
giảng dạy?” Tuy nhiên, không được giải thích thỏa đáng ở đây, sư đến Kiếm
Thương và sau đó đến học đạo tại núi Tỷ Duệ. Mười năm tu tập tại núi nầy đã gây
cho sư một niềm xác tín rằng chỉ có sự phục hoạt của triết lý Thiên Thai
mới là con đường ngắn nhất bước tới Đạo. Tuy nhiên, sau đó vì bất đồng quan
điểm với với các sư Từ Giác và Trí Chứng về tín ngưỡng Di Đà, nên năm
1253 sư bỏ trở về chùa cũ ở Kiyozumi. Ở đây sư đề xướng học thuyết mới, Nhật
Liên Tông, cho rằng chỉ có Pháp Hoa mới duy nhất cứu độ chúng sanh khỏi thời
đại suy đồi thời bấy giờ. Nhật Liên tin rằng thực chất học thuyết của Phật đã
được chứa đựng trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên chỉ có luật chứa đựng trong
kinh ấy mới có thể dẫn đến sự giải thoát. Điều chủ yếu của thông điệp nầy, theo
Nhật Liên, đã được tóm gọn trong nhan đề của Kinh. Do đó ông bày ra cách niệm
nhhan đề của kinh nầy. Pháp thức chủ yếu là đọc tụng “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh.” Đó là niệm Pháp (Dharma-smrti) chứ không phải niệm Phật (Buddha-smrti)
như là trong tụng niệm của Di Đà Giáo. Pháp là lý tưởng được thể hiện bởi Đức
Phật bản hữu. Tất cả chúng sanh đều được cứu độ do xưng tụng nơi Diệu Pháp Liên
Hoa, và ông tuyên bố chỉ có Pháp Hoa là thông điệp duy nhất sau cùng chân thật
của Đức Phật mà thôi—The Japanese founder of the Nichiren Sect. Nichiren
was born in around 1222 A.D., the son of a fisherman of Kominato, Awa, the
southeastern coast of Japan. He left home at fifteen and was sent to Kiyozumi,
a hill near his home, to live as a novice in a monastery. His early problem,
“What was the Truth taught by the Buddha?” was not solved there. He proceeded
to Kamakura and later passed to Mount Hiei in search of the Truth. His study of
ten years on the mountain (1243-1253) convinced him that a revival of
T’ien-T’ai philosophy alone was the nearest approach to the Truth. However,
later, he disagreed with the two masters Jikaku and Chisho on the mystic
rituals, he returned to his old monastery in 1253 at Kiyozumi where he
proclaimed his new doctrine that the Lotus alone could save the people of the
depraved age. For Nichiren, the teaching of Buddha found its highest
expression in the Lotus Sutra. It was his conviction that the teaching found
there alone could lead mankind to liberation. In his view the essence of the
sutra’s message was to be found in its title. Thus the practice that he
instituted consisted in the recitation of the title of the sutra. The essential
formula being “Homage to the Text of the Lotus of the True Ideal” (Veneration to
the Sutra of the Lotus of the Good Law). It is thought on Dharma (Dharma-smrti)
and not Buddha-smrti. Dharma is the ideal realized by the original Buddha. All
beings are saved through homage to the Lotus of Truth, and this alone, he
declared, is the true final message of the Buddha —See Nhật Liên Tông.
2) Nhật Liên tự coi mình như người cứu tinh của dân tộc. Ông hy
vọng đem lại hòa bình cho Nhật Bản theo gương của Kinh Pháp Hoa. Ông trách cứ
các quân vương đã ủng hộ các trào lưu Phật giáo “tà thuyết. Theo ông, đó
là nguyên nhân của những khó khăn mà làm cho đất nước lâm nguy thời bấy giờ. Về
sau ông đả kích các tông phái hiện thời một cách mãnh liệt. Ông cho rằng Tịnh
Độ tông là địa ngục, Thiền tông là yêu ma, Chân ngôn tông là diệt vong quốc
gia, luật tông là phản bội, và Di Đà giáo là kẻ thù của chư Phật, phải chịu
trách nhiệm về những tệ hại và suy đồi trong và ngoài nước—Nichiren saw himself
as the savior of his nation. He wanted to bring about peace in Japan by causing
its people to live in accordance with the teachings of the Lotus Sutra. He
accused the rulers of supporting “heretical” schools of Buddhism and regarded
this as the reason for the difficulties in which the country found itself
at the time. Later, he attacked the religious schools violently. He formulated
his views as follows: the Pure Land is hell, Meditative Intuitionism is devil,
Shingon or mysticism is national ruin and Vinaya sect is traitorous, and
Amitabha-pietism is enemy of all Buddha, chiefly responsible for the evils and calamities
within and without the nation.
3) Những cuộc công kích các tông phái của Nhật Liên ngày càng
trở nên vô cùng mãnh liệt hơn trước. Ông bị xua đuổi khỏi Izu năm 1261. Ông trở
về quê Kamakura. Nhân dịp sứ thần Mông Cổ sang Nhật đòi cống vật, sư kháng cáo
triều đình phải đàn áp các tông phái khác và nhìn nhận Pháp Hoa là đường lối
duy nhất đưa quốc gia ra khỏi họa hoạn. Năm 1271, ông bị bắt và bị kết án tử
hình. Nhưng với một phép lạ, ông thoát khỏi cuộc xử tử và bị đày ra hoang đảo
Tá Độ vào cuối năm đó. Sau ba năm ông trở về Kamakura. Do quan điểm khác thường
của ông mà suốt cuộc đời ông liên tục bị nhà cầm quyền ngược đãi, đày đọa. Tuy
nhiên, tinh thần ái quốc nồng nhiệt qua các bài thuyết pháp của ông đã tạo được
nhiều thiện cảm và sùng mộ trong lòng người dân Nhật Bản. Tông phái do ông lập
ra mang tên Nhật Liên, dựa theo tên ông, và ông được tín đồ Nhật Liên xem như
một Đại Bồ Tát đã cứu độ quốc gia. Năm 1274, sư lui về ở ẩn trên núi Thân Diên,
phía tây Phú Sĩ và sống an bình ở đây. Ông thị tịch tại Ikegami, gần Tokyo, năm
1282—Nichiren’s attacks against other schools became more and more violent. In
1261, he was mobbed, attacked and banished to Izu. He returned to Kamakura.
Upon the arrival of the Mongolian envoys demanding tribute, he again
remonstrated the regime to suppress and adopt the Lotus doctrine as the only
way out of national calamities. In 1271, he was arrested, tried and sentenced
to death. In a miraculous way, he escaped the execution and was banished to the
remote island of Sado at the end of the same year. After three years, he was
allowed to return to Kamakura. Because of his unusual views, his life was a
succession of persecutions by the government. Nevertheless, the burning
patriotism he preached in his sermons as well as his simple doctrine gained for
him much sympathy and devotion among Japanese people. The sect founded by him
was called the Nichiren sect after him. He was looked upon by the followers of
the Nichiren sect as a Mahabodhisattva who saved the nation. In 1274, he
retired to Minobu, west of Mount Fuji, and lived peacefully. He died at
Ikegami, near Tokyo, in 1282.
Nhật
Liên Tông: Nichiren (jap)—New Lotus or
Lotus-pietism (Mahayanistic)—Tông phái nầy mang tên của người sáng lập—This
sect is called after its founder, Nichiren (see Nhật Liên).
(A) Cương yếu về Nhật Liên tông—The preliminary of the Nichiren
School:
1) Nhật Liên Tông còn có tên là Pháp Hoa Tông, được Ngài Nhật
Liên, một Tăng sĩ Nhật bản sáng lập năm 1252 sau Tây Lịch, mà giáo thuyết dựa vào
Tam Đại Bí Pháp. Môn đồ của phái Nhật Liên Tông thường niệm “Nam Mô Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh.” —Nichiren sect, which is also known as the Lotus Sect (Pháp Hoa
Tông), founded by Nichiren, a Japanese founder in 1252 AD. Nichiren believers
devotedly recite “Namo Wonderful Law of the Lotus Sutra” (I trust in the sutra
of the Lotus of the Wonderful Law).
2) Muốn tìm hiểu Nhật Liên tông, trước hết chúng ta tìm hiểu
Kinh Pháp Hoa. Kinh nầy gồm 21 chương, nhưng sau đó do thêm thắt và phân chia
mà thành ra 28 chương. Bản Hán dịch sớm nhất do ngài Pháp Hộ dịch năm 286 sau
Tây Lịch; bản thứ hai do Cưu Ma La Thập dịch vào khoảng năm 406; và bản thứ ba
đầy đủ nhất do Xà Na Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa dịch năm 601. Trong mấy bản nầy
thì bản dịch của Cưu Ma La Thập là có văn chương hay nhất. Bản kinh 28 chương
nầy được Trí Khải và Nhật Liên dùng: To know Nichiren School we must
first know the Lotus text on which all his ideas and arguments are founded.
Originally, the Lotus sutra consisted of twenty-one sections and was later
enlarged into twenty-eight sections by additional revision. The earliest
translation was by Dharmaraksa in 286 A.D., and the second by Kumarajiva in 406
A.D., and the third and complete translation by Jnanagupta and Dharmagupta in
601 A.D.. Among them, the second was the best in Chinese composition. The text
of twenty-eight sections was used by Chih-I and Nichiren.
(B) Giáo thuyết chính—Main doctrines of the Nichiren School: Sau
nhiều năm nghiên cứu, Nhật Liên tuyên bố rằng bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa chính
là sự phát triển chân lý cuối cùng. Ông đưa ra lời tán tụng kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, có lẽ là để hóa giải ảnh hưởng của việc niệm Phật suông của phái Tịnh Độ.
Theo ông thì Đức Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật vĩnh hằng và tuyệt đối, đọc kinh
Diệu Pháp Liên Hoa hay chỉ cần đọc tên bộ kinh là cách tốt nhất để đạt đến giác
ngộ. Giáo thuyết chính của Nhật Liên tông gồm tam mật—After many years of
study, Nichiren declared the Lotus of the Good Law (Saddharma-pundarika) to be
the final revelation of the truth. He introduced the formula ‘homage to the
sutra of the Lotus of the Good Law, perhaps to counteract the influence of the
Pure Land sect (Jodo). According to him, the Sakyamuni Buddha is the eternal,
absolute Buddha, and the recitation of the Saddharma-pundikara-sutra or even
its title is the best way of attaining enlightenment. Its chief tenets are the
three great mysteries, representing the Tripitaka:
1) Bổn Tôn: Hình tượng thờ phượng chính là mười phương vũ trụ
Mạn đà la hay hóa thân của Phật—Chief object of worship being the great mandala
of the worlds of the ten directions, or universe, such as the body or
nirmanakaya of Buddha.
2) Đề Mục (Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh): Kinh Pháp Hoa, bắt
đầu bằng chữ Nam-Mô hay sự tôn kính Bổn Kinh Pháp Hoa, vì đây chính là thân
tinh thần của Phật—The title of the Lotus Sutra (Namo Wonderful Dharma Lotus
Sutra or Homage to the Lotus of Truth), preceded by Namo, or Adoration to the
scripture of the Lotus of the wonderful law, for it is Buddha’s spiritual body.
3) Giới Đàn: Giới luật cũng dựa vào Kinh Pháp Hoa; một khi tín
đồ tin tưởng, liền được vãng sanh về cõi Tịch Quang Tịnh Độ—The altar of the
law, which is also the title of the Lotus Sutra; the believer, wherever he is,
dwells in the Pure Land of calm light, the sambhogakaya.
** For more information, please see Nhật
Liên.
Nhật
Luân: Ngoại viện mặt trời—The sun disc,
which is the exterior of the sun palace of the sun ruler.
Nhật
Luân Tam Muội: Nhật Tuyền Tam
Muội—Suryavarta-samadhi (skt)—Một trong mười sáu phép tam muội được kể trong
Kinh Pháp Hoa—One of the sixteen samadhi mentioned in the Lotus Sutra.
Nhật
Ngung Trung: Giờ Tỵ, 10 giờ sáng. Tông Thiên
Thai cho rằng giờ nầy là giờ của trí huệ Bát Nhã—10 AM styled by the T’ien-T’ai
the hour of wisdom.
Nhật
Nguyệt: Sun and moon.
Nhật
Nguyệt Đăng Minh Phật: Candra-Surya-Pradipa—Kandrarkadipa
(skt)—Theo Phẩm Tự của Kinh Pháp Hoa, đời quá khứ có hai vạn vị Phật có cùng
tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, đã kế tiếp nhau xuất hiện nơi đời mà thuyết
Kinh Pháp Hoa—According to the Lotus Sutra, the is the title of 20,000 Buddhas
in the past kalpas, who succeeded each other preaching the Lotus Sutra.
Nhật
Nguyệt Tịnh Minh Đức:
Candra-vimala-surya-prabhasa-sri—Vị Phật mà pháp giới cũng giống như An Dưỡng
Quốc của Phật A Di Đà—A Buddha whose realm resembles Sukhavati of Amitabha
Buddha.
**
For more information, please see
Sukhavati.
Nhật
Quang: Sunlight.
Nhật
Quang Bồ Tát: Surya-prabhasana—Một trong hai Bồ
Tát hầu cạnh Phật Dược Sư. Vị Bồ Tát nầy ở ngôi vị thứ chín trong Viện Địa Tạng
của Thai Tạng Giới—Sunlight Bodhisattva, one of the two Bodhisattvas who are
assistants of the Master of Healing (Dược Sư). Sunlight Bodhisattva is
the ninth in the Ti-Tsang Court of the Garbhadhatu group.
**
For more information, please see
Nhật
Tàng Hoa Nhãn Thị: Năm đặc tính lấy ra từ tên của năm
vị Phật trong Kim Cang Giới (Đại Nhật, Bảo Tàng, Hoa Khai Phu, Liên Hoa Nhãn,
Thiên Thị Lôi Âm)—Five characters taken from the names of, representing five
Buddhas in the Vajradhatu.
Nhật
Thiên Chúng: Đoàn tùy tùng của Trời Đế Thích
trong cung điện Mặt Trời của ngài—The retinue of Indra in his palace of the
sun.
Nhật
Thiên Tử: Supra (skt)—Tô Lợi Da—Tu Lợi—Tu Dã
Thiên Tử—Tu ý Thiên Tử—Bảo Quang Thiên Tử hay Bảo Ý Thiên Tử, là biến hóa thân
của Quán Âm Bồ Tát, trụ ở trong mặt trời—The sun-ruler, one of the
metamorphoses of Kuan-Yin, dwelling in the sun as palace, driving a quadriga.
Nhật
Thực: Solar eclipse.
Nhật
Tinh Ma Ni: Tên một loại châu ngọc, người mù
mà chạm vào ngọc nầy thời được sáng mắt—A pearl (mani), crystal clear as the
sun, which gives sight to the blind.
Nhật
Tinh Tú: Naksatratara-raja-ditya (skt)—Mức
độ thiền định, chẳng hạn như nhắm vào mặt trời, tinh tú hay chòm sao mà định—A
degree of meditation, such as the sun, stars and constellations samadhi.
Nhật
Tuyền Tam Muội: See Nhật Luân Tam Muội.
Nhật
Tưởng Quán: Quán tưởng mặt trời lặn, quán
tưởng đầu tiên trong 16 phép quán tưởng trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ—Meditation
on, and observing of the setting sun, the first of the sixteen meditations in
the Contemplations of the Infinite Life Sutra.
Nhật
Xuất Luận Giả: Nhật Xuất Luận Giả là tên của vị
sáng lập ra Kinh Bộ Tông, vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa—The sunrise
exponents, a title of the founder of the Sutra Sect before the Christian
Era—See Thí Dụ Luận Sư.
Nhậu: To drink wine.
Nhẹ
Bổng: Very light.
Nhẹm: Ém nhẹm—Secret.
Nheo
Mắt: To screw up one’s eyes.
Nhi
Đồng: Young child.
Nhi
Nữ: Woman.
Nhĩ:
1) Nhĩ căn, một trong sáu căn: Srotra (skt)—The ear, one of the
six organs of the sense.
2) Ngừng lại: To stop—To put down.
Nhĩ
Căn: Srotrendriya (skt)—The organ of
hearing.
Nhĩ
Luân: Vòng đeo tai—An ear-ring.
Nhĩ
Mạn Sai: Mimamsa (skt)—Một trong ba phái
triết hoc chính thống ở Ấn Độ, phái nầy cho rằng chỉ có sự giải thích của kinh
Vệ Đà là chính đáng (Phật giáo gọi phái nầy là Thanh Luận Sư)—The Mimamsa
system of Indian philosophy founded by Jaimini, especially the Purva-mimamsa.
It was one of the three great divisions of Orthodox Hindu philosophy.
Nhĩ
Mạt Hạ: Mimaha (skt)—Theo Eitel trong
Trung Anh Phật Học Từ Điển, Nhĩ Mạt Hạ là một vương quốc cổ cách Samarkand
chừng 70 dậm, nơi mà bây giờ la Moughian hay Naghin tại Turkestan—According to
Eitel in The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Mimaha, an ancient
kingdom about seventy miles east of Samarkand, the present Moughian or Maghin
in Turkestan.
Nhĩ
Mục: Ears and eyes.
Nhĩ
Ngữ Giới: Mật giới được truyền bằng cách nói
thầm vào tai, một lối thực hành của Mật giáo—Secret rules whispered in the ear,
an esoteric practice.
Nhĩ
Nhập: Nhĩ nhập, một trong thập nhị
nhập—The entrance of the ear, one of the twelve entrances.
Nhĩ
Thức: Srotravijnana (skt)—Nhiệm vụ của
Nhĩ thức là nhận biết âm thanh; tuy nhiên, nhĩ thức tùy thuộc nơi nhĩ căn. Khi
nhĩ căn và âm thanh gặp nhau, nhĩ thức liền phát sanh (nơi người điếc thì
nhĩ căn và âm thanh không bao giờ gặp nhau, nên nhĩ thức không bao giờ khởi
sanh). Hành giả nên luôn nhớ như vậy để tu tập thiền định mà đóng bớt nhĩ
căn—Ear Consciousness—Ear perception—Ear-discernemtn—Auditory
consciousness—Hearing consciousness—The function of the ear consciousness is to
perceive and apprehend sounds; however, ear consciousness depends on the ear
faculty. Ear faculty and any sound meet, the ear consciousness develops
instantly (in a deaf person, ear faculty and sounds never meet, therefore no
ear consciousness will arise). Buddhist cultivators should always remember this
and try to practise meditation stop or close the ear consciousness if
possible.
Nhĩ
Xứ: Nhĩ xứ, một trong mười hai xứ—The
place of the ear, one of the twelve places.
Nhị: Dva or Dvi (skt)—Hai—Two—Dvitiya—Second.
Nhị
Ái: Hai loại ái—Two kinds of love:
1) Dục ái: Ordinary human love springing from desire—See Dục
Ái.
2) Pháp ái: Bodhisattva or religious love springing from the
vow to save all creatures—See Pháp Ái.
Nhị
Bách Ngũ Thập Giới: Cụ Túc Giới—Hai trăm năm chục giới
cụ túc của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni—The 250 commandments (precepts) or the perfect
or complete commandments which are obligatory on monks and nuns.
I. Tỳ Kheo 250 Giới—250 Commandments
for Bhikkhus:
(A) (4) Tứ Ba La Di hay Tứ Căn Bản Cực Ác: Parajika
(skt)—Bốn trọng tội không thể tha thứ được. Một vị Tỳ Kheo phạm phải một trong
bốn trọng tội nầy sẽ bị trục xuất khỏi giáo đoàn—The four unpardonable
offenses. A monk who commits one of these offenses is expelled from the Order.
1) Sát: Sát sanh—Kiling.
2) Đạo: Trộm cắp—Stealing or theft.
3) Dâm: Sexual intercourse.
4) Vọng: Vọng ngữ, đặc biệt tự khoa trương là mình đã phát huệ
trong khi mình chẳng có gì—Lying, particularly, claiming to have attained
insight or understanding that one does not in fact possess.
(B) (13) Thập Tam Tăng Tàn: Sanghavasesa (skt)—13 trọng giới
Tăng Tàn. Một vị Tỳ Kheo phạm phải một trong 13 giới nầy sẽ tạm thời bị trục
xuất ra khỏi giáo đoàn một thời gian, cách ly để sám hối (gồm lậu thất, ma xúc,
thô ngữ, thán thân, môi nhân, vô chủ phòng, hữu chủ phòng, vô căn báng, giả căn
báng, phá Tăng, trợ phá Tăng, ô gia tấn, cự Tăng gián)—Thirteen major
prohibitions. A monk who violates these are divested of membership in the Order
for a certain period of time.
(C) (2) Nhị Bất Định Pháp: Aniyata (skt)—Hai trọng tội Bất Định
Pháp, như một mình ở cùng nơi với người nữ, dù có ai thấy, hay không thấy. Gọi
là nhóm tội bất định vì hình phạt thay đổi tùy theo tội trạng—Two major
offenses such as being alone with a woman, either in a place where one cannot
see, or in a place where one can see. These rules are called the indeterminate
or aniyata group because the punishment for going against them varies according
to their circumstances.
1) Bình xứ bất định: Prohibition relating to offenses which are
committed in a place where one cannot be seen.
2) Lộ xứ bất định: Giới cấm liên hệ tới việc phạm giới tại một
nơi không ai thấy—Prohibition relating to offenses which are committed in a
place where one can be seen.
(D) (30) Tam Thập Xả Đọa: Naihisargika-prayaschittika
(skt)—Ba mươi giới xả đọa gồm những giới về y, bát, và vật dụng chung, vân vân.
Người phạm phải một trong ba mươi giới nầy sẽ bị rơi vào ba đường dữ—Thirty
standards whose violation is said to cause one to fall into the three evil
paths.
(E) (90) Cửu Thập Ba Dật Đề: Shuddha-Prayaschittika
(skt)—Chín mươi tội Ba Dật Đề, hay ứng đối trị, gồm những tội linh tinh. Người
phạm phải những giới nầy phải phát lồ sám hối trước chúng—Ninety standards,
violation of which requires public confession.
(F) (4) Đề Xá Ni: Pratiddesaniya (skt)—Bốn tội Đề Xá Ni, hay ưng
phát lồ. Người phạm phải những tội nầy chỉ phát lồ sám hối khi có người biết
được tội của mình (Tùng phi thân ni thủ thực, thực ni chỉ thọ thực, học gia thọ
thực, lan nhã thọ thực)—Four lesser standards, the breaking of which requires
confession when one becomes aware of his error.
(G) (100) Bách Chúng Học: Siksakaraniya or Shaiksha-dharma
(skt)—Một trăm tội nhẹ, rất dễ phạm phải. Người phạm phải những tội nầy nên nhớ
trong lòng để tiến tu—One hundred very minor standards, which are easily broken
but which should be borne in mind for one’s self-development.
(H) (7) Thất Diệt Tranh: Adhikarana-shamatha (skt)—Bảy quy luật
để dàn xếp những tranh cãi trong giáo đoàn—Seven kinds of Vinaya for ending or
settling disputes within the Order—See Thất Diệt Tranh
Pháp.
II. 348 Giới Tỳ Kheo Ni—348 Commandments
for Bhikkhunis.
** Giống như của Tỳ Kheo, cộng thêm bốn
giới Ba La Di, 80 giới Ba Dật Đề, 4 giới
Đề Xá Ni, và mười giới Tăng Tàn—The
same as commandments for Bhikkhus,
plus another four Parajika, another 80
Prayascittikah, another four
Pratidesaniya, and another ten
Sanghavasesa.
Nhị
Ban: See Tri Sự Đầu Thủ.
Nhị
Báo: Hai loại quả báo—The dual reward:
1) Y báo: Y quả—Hoàn cảnh vật chất mà một người phải tùy thuộc
vào do kết quả của nghiệp đời trước—The material environment on which a person
depends, resulting from former karma.
2) Chánh báo: Chánh quả—Direct reward, body or person.
Nhị
Bát: Mười sáu phép quán sát hay thiền
định—The sixteen meditations.
Nhị
Bát Nhã: Hai loại bát nhã hay trí huệ—Two
kinds of prajna or wisdom:
(A)
1) Thế gian Bát nhã: Temporal wisdom.
2) Xuất thế gian Bát nhã: Supernatural wisdom.
(B)
1) Thực tướng Bát nhã: Phần đầu của Bát Nhã Ba La Mật hay trí
tuệ gốc—The first part of the Prajnaparamita—Original Wisdom.
2) Quán chiếu Bát nhã: Phần thứ nhì của Bát Nhã Ba La Mật hay
trí tuệ đạt được qua tu tập—The second part of the Prajnaparamita—Wisdom
acquired from cultivation or contemplation.
(C)
1) Cộng Bát nhã: Bát Nhã của ba giai đoạn Thanh văn, Duyên giác
và Bồ Tát—Prajna of the three stages of Sravaka and Pratyeka-buddha and the
imperfect bodhisattva sect.
2) Bất cộng Bát nhã: Bát Nhã của học thuyết toàn thiện Bồ
Tát—Prajna of the perfect bodhisattva teaching.
Nhị
Bần: Hai loại nghèo—Two kinds of
poverty:
1) Tài bần: Nghèo vật chất—Poverty of goods.
2) Pháp bần: Nghèo tâm linh—Poverty of faith or religion.
Nhị
Biên: Dharmadvaya (skt)—Duality—Two
sides—Two extreme views—Two dualistic views expressly rejected in Buddhism:
(A)
1) Đoạn kiến: Nihilism (skt)—Hoại diệt—Đoạn biên kiến, coi mọi
vật không hiện hữu, ngay cả những ảo giác hiện lên, hay bất cứ thứ gì tiếp tục
sau khi chết. Tà kiến nầy phủ nhận thuyết tái sanh—Annihilation—Considering
that things do not exist in any sense, even the delusory manifestations of the
world, nor anything continue after death—Denial of the doctrine of
reincarnation.
2) Biên kiến: Eternalism (skt) Vĩnh cửu—Thường biên kiến,
tin rằng có sự hiện hữu thật của sự vật, và có những thứ hiện hữu đời
đời—Immortality—Believing that there is true existence of real being in objects,
or that there is some entity that exists forever.
(B)
1) Hữu biên: Tin có sự hiện hữu—Those who believe that things
exist.
2) Vô biên: Tin rằng không có cái gì có thể tự hiện hữu—Those
who believe that nothing is self-existent or thins cannot be said to exist.
(C)
1) Tăng ích biên: The plus side—Những người tin rằng không có
một linh hồn hay sự thường hằng; vạn pháp vốn không có tự tánh—Those who
believe in a soul or permanence; all things are unreal and have no-self.
2) Tổn giảm biên: The minus side—Những người tin rằng không có
cái gì hiện hữu ngay cả nghiệp báo—Those who believe that nothing exists even
of karma.
Nhị
Biểu Nghiệp: Hai loại biểu nghiệp của thân khẩu
ý—Two kinds of activities of the body, mouth and mind:
1) Hữu Biểu Nghiệp: Manifested activities—See Hữu Biểu Nghiệp.
2) Vô Biểu Nghiệp: Unmanifested activities—See Vô Biểu Nghiệp.
Nhị
Bố Thí: Hai loại bố thí—Two kinds of dana
or charity:
(A)
1) Tài thí: Bố thí bằng của cải—Giving of goods.
2) Pháp thí: Thuyết giảng những lời Phật dạy để độ người—Giving
the Buddha’s truth to save sentient beings.
(B)
1) Tịnh thí: Bố thí thanh tịnh chẳng cần báo đáp—Pure or
unsullied charity, which looks for no reward here but only hereafter (expecting
no return).
2) Bất tịnh thí: Bố thí mong cầu phước báo—Impure or sullied
charity whose object is personal benefit (expecting something in return).
Nhị
Bộ: Hai bộ được thành lập ngay khi
Phật nhập diệt—Two divisions that took place immediately after the Buddha’s
death:
1) Thượng Tọa bộ: The elder monks or intimate disciples.
2) Đại Chúng bộ: The general body of disciples.
Nhị
Bộ Ngũ Bộ: The two divisions and the five
divisions.
(A) Nhị Bộ: The two divisions—See Nhị Bộ.
(B) Ngũ Bộ: Người ta nói rằng Ngũ Bộ được thành hình một thế kỷ
sau khi Phật nhập diệt—The five divisions, which are said to have occurred a
century later:
1) Đàm Vô Đức bộ: Dharma-guptah (skt).
2) Tát Bà Đa bộ: Mulasarvastivadah (skt).
3) Di Sa Tắc bộ: Mahisasakah (skt).
4) Ca Diếp Di bộ: Kasyapiyah (skt).
5) Bà Thô Phú Na bộ: Vatsiputriyah (skt).
Nhị
Cảnh: Two realms—Theo Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm trong Niệm Phật Thập Yếu, trên đường tu không tinh tấn thì thôi, nếu
dụng công tinh tấn, nhứt định có cảnh giới. Cảnh giới nầy có hai loại trong và
ngoài khác nhau—According to Most Venerable Thích Thiền Tâm in The Pure Land
Buddhism in Theory and Practice, if we are not diligent and do not exert
efforts along the path of cultivation, nothing usually happens; however, if we
are diligent and exert a great deal of effort, we will definitely witness
different realms. These two realms either come from within the mind or are
caused by outside sources.
1) Nội Cảnh—Internal Realms:
a) Nội cảnh giới cũng gọi là tự tâm cảnh giới, vì cảnh giới nầy
không phải từ bên ngoài vào, mà chính do nơi công dụng trong tâm phát hiện.
Những người không hiểu rõ lý “Vạn pháp duy tâm” cho rằng tất cả cảnh giới đều
từ bên ngoài đến, là lối nhận định sai lầm. Bởi khi hành giả dụng công đến mức
tương ưng, dứt tuyệt ngoại duyên, thì chủng tử của các pháp tiềm tàng trong
tạng thức liền phát ra hiện hạnh. Với người niệm Phật trì chú, thì công
năng của Phật hiệu và mật cú đi sâu vào nội tâm, tất gặp sự phản ứng của hạt
giống thiện ác trong tạng thức, cảnh giới phát hiện rất là phức tạp. Các cảnh
ấy thường hiện ra trong giấc mơ, hoặc ngay trong khi tỉnh thức lúc đang dụng
công niệm Phật. Nhà Phật gọi trạng thái nầy là “A Lại Da Biến Tướng.”—Internal
realms are also called “realms of the Self-Mind” because they do not come from
outside, but develop from the mind. Those who do not clearly understand the
truth that “the ten thousand dharmas are created by the mind,” think that all
realms come from the outside. This is wrong. When the practitioner reaches the
stage of mutual interpenetration of mind and realms, completely severing
external conditions, the seeds of latent dharmas in the Alaya consciousness
suddenly manifest themselves. For the Buddha Recitation or mantra-chanting
practitioner, the power of the Buddha's name or the mantra penetrates deep into
the mind, eliciting a reaction from the wholesome or evil seeds in the
Alaya consciousness. The realms that result are very complex and usually appear
in dreams, or even when the practitioner is awake and striving to recite the
Buddha’s name. In Buddhism, this condition is called “Changing manifestations
of the Alaya consciousness.”
· Trong giấc mơ, nếu do chủng tử ác
phát hiện, hành giả hoặc thấy các loài sâu trong mình bò ra, hoặc thấy nơi thân
có loại nhiều chân giống như bò cạp, rết, mỗi đêm mình gở ra năm bảy con;
hoặc thấy các loài thú ma quái, cảnh tượng rất nhiều không tả xiết được! Đại
khái người nhiều nghiệp tham nhiễm, bỏn xẻn, hiểm độc, thường thấy tướng nam
nữ, rắn rết, hoặc dị loại sắc trắng. Người nhiều nghiệp sân hận, thường thấy
cọp beo, hoặc dị loại sắc đỏ. Người nhiều nghiệp si mê, thường thấy loài súc
vật, sò ốc, hoặc dị loại sắc đen. Tuy nhiên, đây chỉ là ước lược, không phải
tất cả đều nhứt định như thế: In the dreaming scenes, if the events or scenes
result from evil seeds, the practitioner may see various species of worms
crawling out of his body, or witness himself, night after night, removing from
his body six or seven loathsome creatures with many limbs, such as scorpions or
centipedes. Or else, he may see various species of wild animals and or spirits
or ghosts. Such realms are innumerable and cannot al be described. In genral,
individuals greatly afflicted with greed, who are miserly and wicked, usually
see marks of men and women, snakes and serpents and odd species with white
features and forms. Those harboring a great deal of anger and resentment
usually see tigers and leopards or strange species with red forms and features.
Those who are heavily deluded usually see domestic animals, clams, oysters,
snails or different species with black forms and features. The above, however,
is merely indicative; it does not mean that everything will be exactly as
described.
· Nếu do chủng tử lành phát hiện, hành
giả thấy cây cao hoa lạ, thắng cảnh tươi tốt trang nghiêm, mành lưới châu ngọc;
hoặc thấy mình ăn các thứ thơm ngon, mặc đồ trân phục, ở cung điện báu, hay nhẹ
nhàng bay lướt trên hư không. Tóm lại, trong tâm của chúng sanh có đủ chủng tử
mười pháp giới; chủng tử lành hiện thì thấy cảnh Phật, Bồ Tát, Nhơn, Thiên;
chủng tử ác hiện thì thấy cảnh tam đồ tội khổ. Như người kiếp trước có tu theo
ngoại đạo, thường thấy mình phóng ra luồng điển, hoặc xuất hồn đi dạo chơi,
tiếp xúc với các phần âm nói về chuyện thạnh suy, quốc sự. Hoặc có khi tâm
thanh tịnh, trong giấc mơ thấy rõ việc xãy ra đôi ba ngày sau, hay năm bảy
tháng sẽ đến. Đại khái người đời trước có tu, khi niệm Phật liền thấy cảnh giới
lành. Còn kẻ nghiệp nhiều kém phước đức, khi mới niệm Phật thường thấy cảnh
giới dữ; trì niệm lâu ngày ác tướng mới tiêu tan, lần lượt sẽ thấy điềm tốt
lành: If the scenes in his dream come from good wholesome seeds, the
practitioner sees tall trees and exotic flowers, beautiful scenery, bright
adorned with nets of pearls. Or else, he sees himself eating succulent,
fragrant food, wearing ethereal garments, dwelling in palaces of diamonds and
other precious substances, or flying high in open space. Thus, in summary, all
the seeds of the ten Dharma Realms are found in the minds of sentient beings.
If wholesome seeds manifest themselves, practitioners view the realms of
Buddhas, Bodhisattvas, human, and celestial beings; if evil karma is
manifested, they witness scenes from the wretched three Evil Paths. If the
cultivator has followed externalist ways in past lives, he usually sees his
body emitting electric waves, or his soul leaving the body to roam, meeting
demons, ghosts and the like, to discuss politics and the rise and fall of
countries and empires. On the other hand, when the practitioner’s mind is pure,
he will know in his dreams about events that will occur three or fours days, or
seven or eight months, hence. In general, those who have cultivated in previous
lives will immediately see auspicious realms when reciting the Buddha’s name.
Those with heavy karma, lacking merit and virtue, will usually see evil realms
when they begin Buddha Recitation. In time, these evil omens will disappear and
gradually be replaced with auspicious omens.
· Về cảnh trong khi thức, nếu hành giả
dụng công đến mức thuần thục, có lúc vọng tình thoạt nhiên tạm ngưng, thân ý tự
tại. Có lúc niệm Phật đến bốn năm giờ, nhưng tự thấy thời gian rất ngắn như
khoảng chừng đôi ba phút. Có lúc đang trì niệm, các tướng tốt lạ hiện ra. Có
lúc vô ý, tinh thần bỗng nhiên được đại khoái lạc. Có lúc một động một tịnh,
thấy tất cả tâm và cảnh đều không. Có lúc một phen thấy nghe, liền cảm ngộ lý
khổ, không, vô thường, vô ngã, dứt tuyệt tướng ta và người. Những tướng
trạng như thế nhiều không thể tả xiết!: If the practitioner’s efforts have
reached a high level, there are times during his walking hours when all deluded
feelings suddenly cease for a while, body and mind being at ease and free. At
other times, the practitioner may recite for four or five hours but feel
that the time was very short, perhaps two or three minutes. Or else, at times
during recitation, wholesome omens will appear. At other times, unconsciously,
his mind experiences great contentment and bliss. Sometimes, he realizes for a
split second that mind and realm are both empty. At other times, just by
hearing or seeing something once, he becomes awakened to the truth of
suffering, emptiness, impermanence and No-Self, completely severing the marks
of self and others. These occurrences are too numerous to be fully described!
· Có một Phật tử đang khi thức ngồi
trong đêm tối niệm Phật, thoạt thấy dưới đất khắp nền nhà mọc lên hai
loại hoa đỏ trắng cao tới thành giường, trên hư không hoa rơi xuống như mưa. Có
vị đang khi quỳ niệm Phật, bỗng thấy trước bàn Phật hiện ra đóa hao sen đỏ, từ
búp lần lần nở tròn, độ mười lăm phút sau liền tan biến: A layman was once
reciting the Buddha’s name while seated in the dark. Suddenly he saw two types
of flowers, red ones and white ones, springing up all over the floor, reaching
as high as the edge of his bed; meanwhile, other flowers were dropping like
rain from the sky. Another layman, while kneeling down to recite the Buddha’s
name, suddenly saw a red lotus flower appear before the altar, its bud
gradually opening up and disappearing after a few minutes.
· Có một Phật tử đang khi niệm Phật,
cảnh giới xung quanh bỗng ẩn mất, trước mắt hiện ra biển nước mênh mông, êm
tịnh không sóng gió, trên mặt biển mọc lên vô số hoa sen nhiều màu, đóa nào
cũng to lớn; kế đó tướng biển ẩn mất, hiện ra cảnh núi non cỏ hoa tươi tốt, cổ
thụ sum suê, có một ngôi chùa nguy nga tráng lệ; tiếp theo tướng chùa núi lại
ẩn mất, hiện ra cảnh lưới châu, kết lại rồi đứt, đứt rồi kết lại. Đại loại có rất
nhiều cảnh tướng như thế: There was yet another layman who, during recitation,
would suddenly see everything around him disappear. In front of his eyes would
appear the scene of an immense ocean, calm and still, with no wind or waves
whatsoever; countless huge, multicolored lotus blossoms would spring up on the
ocean surface. Afterward, the ocean scene would disappear, to be replaced by
scenes of mountains, with verdant herbs and flowers, luxuriant century-old trees, and, by and by, a temple complex, sumptuous and magmificent.
Then the temple and mountains would disappear, to be replaced by scenes
of jewelled nets coming together then drawing apart, drawing apart then coming
together again. There are, in general, many such scenes.
b) Những cảnh tướng như thế gọi là nội cảnh giới hay tự tâm
cảnh giới, do một niệm khinh an hiện ra, hoặc do chủng tử lành của công đức
niệm Phật trì chú biến hiện. Những cảnh nầy thoạt hiện liền mất, hành giả không
nên chấp cho là thật có rồi để tâm lưu luyến. Nếu sanh niệm luyến tiếc, nghĩ
rằng cảnh giới ấy sao mà nhẹ nhàng an vui, sao mà trang nghiêm tốt đẹp, rồi mơ
tưởng khó quên, mong cho lần sau lại được thấy nữa, đó là điểm sai lầm rất lớn.
Cổ nhân đã chỉ trích tâm niệm nầy là “gải trước chờ ngứa.” Bởi những cảnh tướng
ấy do sự dụng công đắc lực tạm hiện mà thôi, chớ không có thật. Nên biết khi
người tu dụng công đến trình độ nào tự nhiên cảnh giới ấy sẽ hiện ra: Visionary
scenes such as the above, called “internal realms” or “realms of the
Self-Mind,” have their origin in a thought of peace and stillness, or are
caused by wholesome seeds generated by Buddha or Mantra Recitation. They appear
suddenly and are lost immediately. The practitioner should not be attached to
them, thinking that they are real, nor should he remember them fondly. It is an
extreme mistake to develop nostalgia for them, thinking how ethereal, calm and
peaceful, beautiful and well-adorned they were, they day-dream about them,
unable to forget them, longing for their reappearance. The ancients have criticized
such thoughts as “scratching in advance and waiting for the itch.” This is
because these scenes have their origin in diligent exertion and appear
temporarily. They have no true existence. We should realize that when the
practitioner exerts a certain level of efforts, the scenes and features
particular to that level will appear naturally.
· Ví như người lữ hành mỗi khi đi qua
một đoạn đường, tất lại có một đoạn cảnh vật sai khác hiển lộ. Nếu như kẻ lữ
hành chưa đến nhà, mà tham luyến cảnh bên đường không chịu rời bước, tất có sự
trở ngại đến cuộc hành trình, và bị bơ vơ giữa đường chẳng biết chừng nào mới
về đến nhà an nghỉ. Người tu cũng như thế, nếu tham luyến cảnh giới tạm, thì
không làm sao chứng được cảnh giới thật. Thảng như mơ tưởng đến độ cuồng vọng,
tất sẽ bị ma phá, làm hư hại cả một đời tu: Take the example of a traveller who
views different scenery as he passes along various stretches of the road. If he
has not reached home, yet develops such an attachment and fondness for a particular
scene along the road that he refuses to proceed, his travel will be
impeded. He will then be helplessly lost in the midst of his journey, not
knowing when he will finally return home to rest. The practitioner is like that
traveller; if he becomes attached to and fond of temporary realms and scenes,
he will never attain the true realms. Were he to dream of them to the point of
insanity, he would be destroyed by demons and waste an entire lifetime of
practice!
· Kinh Kim Cang nói: “Phàm có những tướng
đều là hư vọng; nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai.” (phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như
Lai). “Có những tướng” không phải “những tướng có” thuộc về pháp hữu vi sanh
diệt, bởi các tướng ấy chẳng tự bảo rằng mình có hay không, thật hay giả, chỉ
do kẻ chưa ngộ đạo lý động niệm phân biệt, chấp cho là có, không, thật, giả,
nên mới thành ra hư vọng. Đến như bậc tham thiền khi nhập định, thấy định cảnh
mênh mang rỗng không trong suốt, tự tại an nhàn, rồi sanh niệm ưa thích; hay
khi tỏ ngộ được một đạo lý cao siêu, rồi vui mừng chấp giữ lấy, cũng đều thuộc
về “có tướng.” Và đã “có tướng” tức là có hư vọng. “Thấy các tướng” là thấy
những tướng lành, dữ, đẹp, xấu, dơ, sạch, có, không, Phật, chúng sanh, cho đến
cảnh ăm ấm, sáu trần, vân vân, “chẳng phải tướng,” nghĩa là thấy mà đừng chấp
trước cũng đừng phủ nhận, cứ để cho nó tự nhiên. Tại sao không nên phủ nhận?
Bởi các tướng tuy hư huyễn, nhưng cũng chẳng phải là không; ví như bóng trăng
đáy nước, tuy không phải thật có, nhưng chẳng phải không có tướng hư huyễn của
bóng trăng. Cho nên trong khi tu, nếu thấy các tướng hiện, đừng lưu ý, cứ tiếp
tục dụng công; ví như người lữ hành, tuy thấy cảnh bên đường, nhưng vẫn tiến
bước để mau về đến nhà. “Tức thấy Như Lai” là thấy bản tánh Phật, hay thấy được
đạo vậy: The Diamond Sutra states: “Everything in this world that has marks is
illusory; to see marks as not marks is to see the Tathagata.” Everything that
has marks refers here to compounded, conditioned dharmas. Tose marks canot be
said either to exist or not to exist, or to be true or false. Delusion arise
precisely because unenlightened sentient beings discriminate, become attached
and think that these marks exist or do not exist are real or are false. Even
the fondness which some Zen practitioners develop for samadhi, upon entering
concentration and experiencing this immense, empty, still, transparent,
peaceful and free realm, falls into the category of “having marks.” The same is
true when these practitioners, once awakened to a certain lofty, transcendental
principle, joyfully grasp at it. Once there are marks, there is delusion. “To
see marks” means to see such marks as auspicious or evil, good or bad, dirty or
clean, existent or non-existent, Buddha or sentient beings, even the realms of
the Five Skandas or the Six Dusts, etc. “As not marks” means seeing but neither
becoming attached to nor rejecting them, just letting everything be. Why should
we not reject them? It is because makrs, while illusory, are not non-existent.
This is not unlike the reflection of the moon in the water. Although the
reflected moon is not real, this does not mean that there is no illusory mark
of moonlight. Therefore, if we see marks appear while we are cultivating, we
should disregard them and redouble our efforts, just like the traveller, who
views varied scenery en route but must push forward to reach home quickly. “To
see the Tathagata” is to see the original Buddha Nature, to see the Way.
· Tóm lại, từ các tướng đã kể trên,
cho đến sự nhứt tâm, lý nhứt tâm, đều là nội cảnh giới. Cảnh giới nầy có hai
phương diện là Tương Tự và Phần Chứng. Cảnh tương tự là tạm thấy rồi liền mất.
Cảnh phần chứng là một khi được tất được vĩnh viễn, vì đã chứng ngộ được một
phần chân như. Không luận nội cảnh hay ngoại cảnh, nếu là tương tự đều không
phải là chân cảnh giới, mà gọi là thấu tiêu tức, nghĩa là không thấu được một
phần tin tức của chân tâm. Người thật phát lòng cầu giải thoát, chớ nên đem
tướng thấu tiêu tức nhận làm chân cảnh giới. Thấu tiêu tức ví như cảnh trời âm
u râm tối, hốt nhiên có trận gió thổi làm mây đem tạm tan, hé ra một chút ánh
thái dương, kế đó mây đen lại che khuất. Lại như người xưa cọ cây lấy lửa,
trước khi lửa bật lên, tất có tướng khói phát hiện. Chân cảnh giới ví như
ánh thái dương sáng suốt giữa trời trong tạnh, và như lúc cọ cây đã lấy được
lửa. Tuy nhiên, cũng đừng xem thường thấu tiêu tức, vì có được tướng nầy, mới
chứng minh xác thực có chân cảnh giới. Nên từ đó gia công tinh tấn, thì chân
cảnh giới mới không xa: In summary, all states of mind, from those described
above to the state of one-pointedness of mind, belong to the category of
“internal realms.” These realms have two aspects: “Attainment-like” and
“Partial attainment.” “Attainment-like” realms appear temporarily and disappear
immediately. “Partial attainment” realms are those that once achieved, we
have forever, because we have actually attained a part of True Thusness.
Regardless of whether it is internal or external, if it is “attainment-like” it
is not a True Realm; it is merely a full understanding of some of the
manifestations of the True Mind. Practitioners who truly seek liberation should
not confuse these aspects, taking attainment-like marks for the True Realm.
Attainment-like marks are like a dark, leaden sky which suddenly clears,
thanks to the winds which temporarily push away the dark clouds, letting
a few rays of sunlight through before the sky becomes overcast again. They also
resemble the “mark” of smoke just before the fire, that people used to get when
they rubbed two pieces of wood together. The True Realm can be likened to the
bright sunlight in a clear and calm sky. It is like rubbing pieces of wood
together and already having fire. However, we should not underestimate attainment-like
marks, as they demonstrate the genuine existence of the True Realm. If,
from that level, we diligently redouble our efforts, the True Realm is not that
far away after all.
2) Ngoại Cảnh—External Realms:
a) Ngoại cảnh giới là cảnh không phải do nội tâm hiện ra, mà từ
bên ngoài đến. Hoặc có hành giả thấy Phật, Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, khuyến
tấn khen ngợi. Hoặc có hành giả đang khi niệm Phật, thoạt nhiên tâm khai, thấy
ngay cõi Cực Lạc. Hoặc có hành giả đang tịnh niệm thấy chư thần tiên đến, chắp
tay vi nhiễu xung quanh tỏ ý kính trọng, hoặc mời đi dạo chơi. Hoặc có hành giả
thấy các vong đến cầu xin quy-y. Hoặc có hành giả khi mức tu cao, bị ngoại ma
đến thử thách khuấy nhiễu: External realms are realms which are not created by the
mind, but come from the outside. For example, some practitioners might see
Buddhas and Bodhisattvas appearing before them, preaching the Dharma, exhorting
and praising them. Others, while reciting the Buddha’s name, suddenly
experience an awakening and immediately see the Land of Ultimate Bliss.
Some practitioners, in the midst of their pure recitation, see deities
and Immortals arrive, join hands and circumambulate them respectfully, or
invite them for a leisurely stroll. Still other practitioners see “wandering
souls of the dead” arrive, seeking to take refuge with them. Yet others, having
reached a high level in their practice, have to endure challenges and
harassment from external demons.
b) Như khi xưa có một Phật tử căn tánh ngu tối, song thường
kính niệm Đức Quán Thế Âm. Một đêm nằm mơ thấy Bồ Tát đến bảo nên thường tham
cứu bài kệ sau đây, lâu ngày sẽ được khai ngộ:
“Đại trí phát nơi tâm
Nơi tâm chỗ nào tìm?
Thành tựu tất cả nghĩa
Không cổ cũng không kim!”
For example, there was once a layman of rather dull
capacities who constantly woeshipped Avalokitesvara Bodhisattva. During a dream
one night, he saw the Bodhisattva urging him to meditate on the following
stanza, and in time he would experience a Great Awakening:
“Great wisdom develops from the mind
Where in the Mind can it be found?
To realize all meanings,
Is to have neither past nor present.”
c) Những tướng trạng kể trên đều gọi là ngoại cảnh giới. Có
người hỏi: “Thấy Phật thấy hoa sen, có phải là cảnh ma chăng? Kỳ thật, nếu nhân
quả phù hợp, thì quyết không phải là cảnh ma. Bởi tông Tịnh Độ thuộc về “Hữu
Môn,” người niệm Phật khi mới phát tâm, từ nơi tướng có mà đi vào, cầu được
thấy Thánh cảnh. Đến khi thấy hảo tướng, đó là do quả đến đáp nhân, nhân và quả
hợp nhau, quyết không phải là cảnh ma. Trái lại, như Thiền tông, từ nơi “Không
Môn” đi vào, khi phát tâm tu liền quét sạch tất cả tướng, cho đến tướng Phật
tướng Pháp đều bị phá trừ. Bậc thiền sĩ không cầu thấy Phật hoặc hoa sen, mà
tướng Phật và hoa sen hiện ra, đó là nhân quả không phù hợp. Quả không có nhân
mà phát hiện, đó mới chính là cảnh ma. Cho nên người tu thiền luôn luôn đưa cao
gươm huệ, ma đến giết ma, Phật đến giết Phật, đi vào cảnh chân không, chẳng dung
nạp một tướng nào cả: The realms and manifestations summarized above are
called “External realms.” Some might ask, “To see Buddhas and lotus blossoms is
it not to see demonic apparitions?” If cause and effect coincide, these are not
“demonic realms.” This is because the Pure Land method belongs to the Dharma
Door of Existence; when Pure Land practitioners first develop the Bodhi Mind,
they enter the Way through forms and marks and seek to view the celestial
scenes of the Western Pure Land. When they actually witness these auspicious
scenes, it is only a matter of effects corresponding to causes. If cause and
effect are in accord, how can these be “demonic realms?” In the Zen School, on
the other hand, the practitioner enters the Way through the Dharma Door of
Emptiness. Right from the beginning of his cultivation, he wipes out all marks,
even the marks of the Buddhas or the Dharma are destroyed. The Zen practitioner
does not seek to view the Buddhas or the lotus blossoms, yet the marks of the
Buddhas or the lotus blossoms appear to him. Therefore, cause and effect do not
correspond. For something to appear without a corresponding cause is indeed the
realm of the demons. Thus, the Zen practitioner always holds the sword of
wisdom aloft. If the demons come, he kills the demons; if the Buddha comes, he
kills the Buddha, to enter the realm of True Emptiness is not to tolerate a
single mark.
Nhị
Căn: Hai loại căn—Two roots:
(A)
1) Lợi căn: Keen (able) root.
2) Độn căn: Dull root.
(B)
1) Chính căn: Thắng nghĩa căn—Khả năng sử dụng các căn để nhận
thức rõ về chân lý, chứ không phải là sở kiến phàm phu—The power or ability
which uses the sense organs to discern the truth.
2) Phù căn: Phù Trần căn—Năm căn hay y xứ của năm căn trên thân
thể—The sense organs as aids.
(C)
1) Nam căn: Male organ.
2) Nữ căn: female organ.
Nhị
Câu Phạm Quá: Cả hai đều phạm lỗi—Một từ ngữ nói
về những chỉ trích của Thiên Thai về Hoa Nghiêm, dù cho Thiên Thai là Viên
giáo, nhưng nó vẫn còn có những chỗ thô chỗ dở của Biệt giáo so với giáo pháp
thực sự hoàn hảo thời Pháp Hoa—Both have mistakes—A term applied by T’ien-T’ai
in criticism of Hua-Yen, which while it is a perfect or complete doctrine, yet
has the “crudities” of the Avatamsaka or Lotus sects (Biệt Giáo) and comes
short of the really perfect Lotus doctrine.
Nhị
Cầu: Hai loại mong cầu—Two kinds of
seeking:
1) Đắc cầu: Cầu được những điều khoái lạc sung sướng—Seeking to
get something of enjoyment and happiness.
2) Mệnh cầu: Cầu được sống lâu mãi mãi—Seeking long life.
Nhị
Chân Như: Theo Phật Giáo, có hai loại Chân
Như—According to Buddhism, there are two aspects of the bhutatathata, or two
truths:
(A)
1) Bất biến chân như (vạn pháp tức chân như): An lập chân
như—Tùy theo duyên vô minh mà khởi lên trong thế giới hiện tượng mà chân tính
bất biến—The changeless essence or substance.
2) Tùy duyên chân như (chân như tức vạn pháp): Phi an lập chân
như—Tùy theo duyên vô minh mà dấy lên như trong thế giới hiện tượng—Its
conditioned or ever-changing forms, as in the phenomenal world.
(B)
1) Ly ngôn chân như: Thể tướng của chân như vốn xa lìa tướng
ngôn ngữ, tướng tâm niệm—The inexpressible absolute, only mentally conceivable.
2) Y ngôn chân như: Dựa vào ngôn ngữ lời nói giả danh để hiện
rõ chân tướng—Aspects expressed in words.
(C)
1) Không chân như: Lìa hết thảy các pháp nhiễm lây, dường như
hư không hay tấm gương sáng, không có gì trong đó—The absolute as the void
(space, the sky, the clear mirror).
2) Bất không chân như: Chơn như đủ hết thảy các pháp tịnh, như
gương sáng hiện lên muôn vẻ—The absolute in manifestation or phenomenal (images
in the mirror)—The womb of the universe in which are all potentialities.
(D)
1) Tại triền chân như: Còn gọi là Hữu Cấu Chân Như, tức là chân
như ở trong ràng buộc—The Buddha nature in bonds.
2) Xuất triền chân như: Còn gọi là Vô Cấu Chân Như, tức là chân
như ra khỏi ràng buộc—The Buddha nature set free by the manifestation of the
Buddha and Bodhisattvas.
(E)
1) Hữu cấu chân như: Chân như có bợn nhơ, như trong trường hợp
chúng sanh là những người chưa giác ngộ (lục bình bám rễ trong bùn)—The
Buddha-nature defiled, as unenlightened man (water lily with its roots in the
mud).
2) Vô cấu chân như: Chân như không bợn nhơ, như nơi chư Phật
hiển hiện Phật tánh thanh tịnh và trong sáng như trăng rằm—The pure
Buddha-nature, purified or bright as the full moon.
(F)
1) An lập Chân như: See Bất biến Chân như.
2) Phi An lập Chân như: See Tùy duyên Chân như.
(G)
1) Tương đãi chân như: Chơn như trong thế giới hiện tượng, y
theo lời nói giả danh mà hiển hiện ra, bất biến mà tùy duyên—Relative or
conventional, everyday truth of the mundane world subject to delusion and
dichotomies.
a) Chơn như tương đối trong thế giới hiện tượng, y theo lời nói
giả danh mà hiện ra, bất biến mà tùy duyên—The relative truth, or the truth of
the unreal, manifests ‘stillness but is always illuminating,’ which means that
it is immanent in everything.
b) Những nhà tư tưởng của trường phái Tịnh Độ chấp nhận dùng
tương đãi chân như để diễn tả tuyệt đãi chân như, hay dùng tương đãi chân như
như là cỗ xe phương tiện đưa chúng ta đến tuyệt đãi chân như. Phương thức giúp
hành giả Tịnh Độ dựa trên sắc tướng để đạt đến Phật tánh là cái vô tướng—Pure
Land thinkers accepted the legitimacy of conventional truth as an expression of
ultimate truth and as a vehicle to reach Ultimate Truth. This method of basing
on form helps cultivators reach the Buddhahood, which is formless.
2) Tuyệt đãi chân như: Chơn như tuyệt đối, siêu việt, hay chân
không tuyệt đối, đây là những gì chư Phật đã dạy, tùy duyên mà bất biến—The
ultimate or absolute Truth, transcending dichotomies, as taught by the Buddhas.
The absolute truth, or the truth of the void, manifests’illumination but is
always still,’ and this isn absolutely inexplicable.
** For more information, please see Chân
Như (C).
Nhị
Chấp:
(A) Hai tà chấp hay luyến ái—Two erroneous tenets or
attachments—Illusions—Do ngã pháp chấp, ảo vọng phát khởi—All illusion arises
from holding to the reality of the ego and of things:
1) Ngã chấp: Nhân chấp hay chấp cái ngã có thật—Attachment of
the reality of the ego, permanent personality, the atman, soul or self.
2) Pháp chấp: Chấp rằng vạn pháp có thật—Attachment of the
reality of dharma, things or phenomena.
(B) Hai thuyết chấp về luân hồi—Two theories on reicarnation:
Hai thuyết nầy đều không đúng với luật “Luân Hồi” của đạo Phật. Theo giáo lý
nhà Phật thì chúng sanh lăn lộn trong luân hồi sanh tử, vòng luân hồi xoay
chuyển chúng sanh trong lục đạo. Phật tử không tin nơi đoạn diệt, vì đoạn diệt
căn cứ trên sự hiểu biết không toàn hảo về chân như thực tánh; mà cũng không
tin nơi thường hằng vì Phật tử không tin thế giới nầy hay thế giới nào khác lại
có sự trường cửu không thay đổi—Both theories do not conform to the Buddhist
law of causality. In Buddhist view, men are tied to the cycle of birth and
death, the cycle of reincarnation. This cycle turns around and around,
compelling men to reincarnate in one of the six realms. Buddhists believe that
Nihilism is false because it is based on incomplete understanding of reality.
Eternalism is also wrong, because Buddhists cannot accept that there is anything either in this world or any other world that is eternal or
unchangeable.
1) Chấp Đoạn Kiến—Attachment on Nihilism: Thuyết nầy tin rằng
loài người cũng như vật, chết là mất là mất hẳn, không còn gì sau đó, là cát
bụi con người trở về với cát bụi. Các khoa học gia cho rằng mỗi cá nhân vào đời
lúc được thọ thai do tinh cha trứng mẹ, sống cuộc đời của mình và chết, chấm
dứt hiện hữu—This theory believes in nihilism, claims that after death there is
nothing left. Man born from dust will return to dust. This is what scientists
believe. They say every person conceived by the fusion of a sperm and egg, will
live his life and will die, thus terminating his existence on earth.
2) Chấp Thường Kiến—Attachment on Eternalism: Thuyết nầy tin
rằng trước khi là người, con người không có hiện hữu, rồi được tạo nên, con
người được sanh vào đời do ý chí của một vị thần linh. Người ấy sống đời
mình, rồi tùy theo những gì mình tin tưởng hay những hành động của mình trong
đời, sẽ được về vĩnh viễn trên cõi thiên đàng hoặc bị đày vĩnh viễn nơi địa
ngục—This theory believes in eternalism, believes that man was created by the
will of some Deity. He will live his life and act according to his beliefs in
order to return to Heaven or to be condemned forever in Hell.
Nhị
Chúng: Hai chúng Phật giáo—Two groups of
Buddhist followers:
1) Chúng Xuất gia: Tu sĩ xuất gia là những vị đã giữ từ mười
giới trở lên—The monks or clergy who observe at least ten commandments.
2) Chúng tại gia: Cư sĩ tại gia là các vị chỉ giữ từ năm đến
tám giới—The laity who observe the five and the eight commandments.
Nhị
Chủng: Hai loại—Two kinds or classes.
Nhị
Chủng Bát nhã: See Nhị Bát nhã.
Nhị
Chủng Bịnh: Hai loại bịnh—Two kinds of
sickness:
1) Thân bịnh: Physical sickness.
2) Tâm bịnh: Mental or spiritual sickness.
Nhị
Chủng Bồ Đề Tâm: Two kinds of Bodhi-mind.
1) Duyên Sự Bồ Đề Tâm: See Duyên Sự Bồ Đề Tâm, and Tứ Hoằng Thệ
Nguyện.
2) Duyên Lý Bồ Đề Tâm: See Duyên Lý Bồ Đề Tâm.
Nhị
Chủng Bồ Tát: Hai loại Bồ Tát—Two kinds of
Bodhisattvas:
(A)
1) Tại gia Bồ Tát: Lay Bodhisattvas.
2) Xuất gia Bồ Tát: Monastic Bodhisattvas.
(B) Chư Phật và chư Bồ Tát lấy đại bi làm sự nghiệp. Vậy người đã phát tâm Bồ Đề,
nếu muốn cứu độ chúng sanh, chỉ nên nguyện sanh trong ba cõi, ở nơi đời ngũ
trược, vào ba đường ác mà cứu khổ cho chúng hữu tình. Nếu đã phát tâm tu theo
Phật mà lại xa rời chúng sanh, tự sống riêng một cuộc đời an ổn, e rằng thiếu
lòng từ bi, chuyên lo tự lợi và trái với đạo Bồ Đề. Theo Đại Sư Trí Giả và
Thiên Như trong Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận, có hai hạng Bồ Tát—Great
Compassion is the life calling of Buddhas and Bodhisattvas. Thus, those who
have developed the Bodhi Mind, wishing to rescue and ferry other sentient
beings across, should simply vow to be reborn in the Triple Realm, among the
five turbidities and the three evil paths. If we abandon sentient beings to
lead a selfish life of tranquility, we lack compassion. A preoccupation with
egoistic needs contrary to the path of enlightenment. According to Masters
Chih-I and T'ien-Ju in The Pure Land Buddhism, there are two types of
Bodhisattvas.
1) Bậc tu Bồ Tát đạo đã lâu, đã chứng được Vô Sanh Pháp
Nhẫn—Those who have followed the Bodhisattva path for a long time and attained
the Tolerance of Non-Birth or insight into the non-origination of phenomena:
Bậc nầy có thể nguyện sanh trong đời ác để cứu độ chúng sanh mà không sợ cùng
chúng sanh đắm chìm trong biển sanh tử luân hồi. Luận Đại Trí Độ dạy: “Bậc Bồ
Tát đã chứng Vô Sanh Nhẫn cũng ví như người có thân nhân bị nước lôi cuốn, mà
có đủ đầy khả năng và phương tiện, người ấy tỉnh sáng lấy thuyền bơi ra cứu,
nên cả hai đều không bị nạn trầm nịch.”—These Bodhisattvas can vow to be reborn
in this evil realm to rescue sentient beings without fear of being drown in the
sea of Birth and Death with sentient beings. The Perfection of Wisdom Treatise
states: “Take the case of the person who watches a relative drowning in the river,
a person, more intelligent and resourceful, hurries off to fetch a boat and
sails to rescue his relative. Thus both persons escape drowning. This is
similar to the case of a Bodhisattva who has attained Tolerance of Non-Birth,
has adequate skills and means to save sentient beings.”
2) Bậc chưa chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn và hàng phàm phu mới phát
tâm Bồ Tát—Bodhisattvas who have not attained the Tolerance of Non-Birth, as
well as ordinary people who have just developed the Bodhi Mind: Những vị nầy cần
phải thường không rời Phật mới có cơ thành tựu được nhẫn lực và có thể ở trong
ba cõi, vào nơi đời ác để cứu độ chúng sanh. Cho nên Đại trí Độ Luận nói: “Hạng
phàm phu còn đủ mọi sự ràng buộc, dù có lòng đại bi, nhưng vội muốn sanh trong
đời ác để cứu độ chúng hữu tình khổ não, đó là điều không hợp lý. Tại sao thế?
Vì trong cõi đời ác trược, nghiệp phiền não mạnh mẽ. Khi ấy mình đã không có
nhẫn lực, tức tâm sẽ tùy cảnh mà chuyển, rồi bị sắc, thanh, danh, lợi trói
buộc, sanh ra đủ nghiệp tham, sân, si. Chừng đó tự cứu đã không xong, nói chi
là cứu độ chúng sanh? Giả sử được sanh trong cõi người thì cảnh xấu ác, kẻ tà
ngoại dẫy đầy, nguời chánh chơn khó gặp, cho nên Phật pháp không dễ gì được
nghe, Thánh đạo không dễ gì chứng được. Nếu là người do nhân bố thí, trì giới
hay tu phước mà được làm bậc quyền quý, mấy ai không mê đắm cảnh giàu sang,
buông lung trong trường dục lạc? Lúc đó dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo, họ
cũng không chịu tin làm theo, lại vì muốn thỏa mãn lòng tham dục của mình,
nương quyền cậy thế sẳn có, gây ra thêm nhiều tội nghiệp. Đến khi chết rồi, bị
đọa vào tam đồ trải qua vô lượng kiếp, khi khỏi tam đồ dầu có sanh được làm
người cũng phải thọ thân bần tiện; nếu không gặp thiện tri thức lại mê lầm gây
thêm tội ác thì lại bị đọa nữa. Từ trước đến nay chúng sanh luân hồi đều ở
trong tình trạng ấy. Vì thế mà Kinh Duy Ma nói: “Chính bịnh của mình còn không
tự cứu được, đâu có thể cứu được bịnh cho kẻ khác.” Luận Đại Trí Độ cũng nói:
“Ví như hai người, mỗi kẻ đều có thân nhân bị nước lôi cuốn, một người tánh gấp
nhảy ngay xuống nước để cứu vớt, nhưng vì thiếu khả năng và phương tiện nên cả
hai đều bị đắm chìm.” Bậc Bồ Tát mới phát tâm vì chưa đủ nhẫn lực nên chẳng
những không cứu được chúng sanh, mà còn hại đến chính bản thân mình. Thế nên Đại
Trí Độ Luận dạy tiếp: “Bồ Tát sơ tâm như trẻ thơ không nên rời mẹ, nếu rời mẹ
thì hoặc rơi vào hầm giếng, té xuống sông đầm, hoặc đói khát mà chết. Lại như
chim non chưa đủ lông cánh, chỉ có thể nhảy chuyền theo cành cây; đợi chừng nào
lông cánh đầy đủ, mới có thể bay xa, thong thả vô ngại. Phàm phu không nhẫn
lực; chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà cho được nhất tâm, đợi khi tịnh nghiệp
thành tựu, lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh, quyết định không
nghi. Khi thấy Đức Phật A Di Đà và chứng quả Vô Sanh rồi, chừng ấy sẽ cỡi
thuyền Pháp Nhẫn vào biển luân hồi cứu vớt chúng sanh, mặc ý làm vô biên Phật
sự”—If these Bodhisattvas aspire to perfect that Tolerance and enter the evil
life of the Triple Realm to save sentient beings, they should always remain
close to the Buddhas and Good Advisors. The Perfection of Wisdom Treatise
states: “It is unwise for human beings who are still bound by all kinds of
afflictions, even if they possess a great compassionate Mind, to seek a
premature rebirth in this evil realm to rescue sentient beings. Why is this so?
It is because this evil, defiled world, afflictions are powerful and
widespread. Those who lack the power of Tolerance of Non-Birth are bound to be
swayed by external circumstances. They then become slaves to form and sound,
fame and fortune, with the resulting karma of greed, anger and delusion. Once
this occurs, they cannot even save themselves, how can they save others?” If,
for example, they are born in the human realm, in this evil environment full of
non-believers and externalists, it is difficult to encounter genuine sages.
Therefore, it is not easy to hear the Buddha Dharma nor achieve the goals of
the sages. Of those who planted the seeds of generosity, morality and blessings
in previous lives and are thus now enjoying power and fame, how many are not
infatuated with a life of wealth and honor, allowing in endless greed and lust?
Therefore, even when they are counselled by enlightened teachers, they do not
believe them nor act accordingly. Moreover, to satisfy their passions, they
take advantage of their existing power and influence, creating a great deal of
bad karma. Thus, when their present life comes to an end, they descend upon the
three evil paths for countless eons. After that, they are reborn as humans of
low social and economic status. If they do not then meet good spiritual
advisors, they will continue to be deluded , creating more bad karma and
descending once again into the lower more realms. From time immemorial,
sentient beings caught in the cycles of Birth and Death have been in this
predicament. The Vimalakirti Sutra also states: “If you cannot even cure your
own illness, how can you cure the illnesses of others?” The Perfection of
Wisdom Treatise further states: “Take the case of two persons, each of whom
watches a relative drowning in the river. The first person, acting on impulse,
hastily jumps into the water. However, because he lacks capabilities and the
necessary means, in the end, both of them drown.” Thus newly aspiring Bodhisattvas
are like the first individual, who still lacks the power of Tolerance of
Non-Birth and cannot save sentient beings. The Perfection of Wisdom Treatise
further teaches: “This is not unlike a young child he should not leave his
mother, lest he fall into a well, drown in the river or die of starvation; or a
young bird whose wings are not fully developed. It must bide its time, hopping
from branch to branch, until it can fly afar, leisurely and unimpeded. In the
same manner, ordinary people who lack the Tolerance of Non-Birth should limit
themselves to Buddha Recitation, to achieve one-pointedness of Mind. Once that
goal is reached, at the time of death, they will certainly be reborn in the
Pure Land. Having seen Amitabha Buddha and reached the Tolerance of Non-Birth,
they can steer the boat of that Tolerance into the sea of Birth and Death, to
ferry sentient beings across and accomplish countless Buddha deeds at
will.”
Nhị
Chủng Bồ Tát Thân: Hai loại thân Bồ Tát—Two kinds of
Bodhisattva’s body:
1) Nhục thân Bồ Tát: Thân sống chết của Bồ Tát—Bodhisattva’s
mortal body.
2) Kim thân bất hoại Bồ Tát: Bodhisattva’s immortal body.
Nhị
Chủng Bố Thí: Hai loại bố thí—Two kinds of dana
or charity—See Nhị Bố Thí.
Nhị
Chủng Chấp Trì : Theo Tịnh Độ tông, chấp trì có
nghĩa là luôn luôn tụng niệm, niệm nào cũng phải nhớ lấy danh hiệu của Đức Phật
A Di Đà. Vì thế cho nên chấp trì còn được gọi là “Trí Tuệ Suy Nghĩ.” Theo Kinh
A Di Đà Yếu Nghĩa, Hán dịch bởi Ngài Cưu Ma La Thập, ngài Trí Húc giải thích,
và cư sĩ Tư Nhuận Việt dịch, có hai loại “Chấp Trì”—According to the Pure Land
Sect, reciting the Buddha-name is a matter of being mindful of the Buddha-name
from moment to moment, thus it is the “wisdom that comes from reflecting.”
According to the Amitabha Sutra (translated into Chinese by Kumarajiva,
explained by Bhikshu Trí Húc, and translated into Vietnamese by lay person Tuệ
Nhuận), there are two levels of practice in reciting the Buddha-name.
1) Sự Trì: Reciting the Buddha-name at the phenomenal
level—Người “sự trì” là người tin có Phật A Di Đà ở cõi tây Phương Tịnh Độ,
nhưng chưa thông hiểu thế nào là “Tâm mình tạo tác ra Phật, Tâm mình chính là
Phật.” Nghĩa là người ấy chỉ có cái tâm quyết chí phát nguyện cầu vãng sanh
Tịnh Độ, như lúc nào cũng như con thơ nhớ mẹ chẳng bao giờ quên—Reciting the
Buddha-name at the level of phenomenal level means believing that Amitabha
Buddha exists in His Pure Land in the West, but not yet comprehending that he
is a Buddha created by the Mind, and that this Mind is Buddha. It means you
resolve to make vows and to seek birth in the Pure Land, like a child longing
for its mother, and never forgetting her for a moment.
2) Lý Trì: Reciting the Buddha-name at the level of inner
truth—Người “lý trì” là người tin rằng Phật A Di Đà ở Tây Phương là Phật đã có
sẳn trong tâm mình, là Phật do Tâm mình tạo ra, mình lấy ngay cái danh hiệu
Phật lớn lao và có sẳn trong Tâm mình đó mà buộc Tâm mình vào, khiến cho nó chớ
tạm quên—Reciting the Buddha-name at the level of inner truth or noumenon means
believing that Amitabha Buddha and His Pure Land in the West are inherent
features of our own pure Minds, the creation of our own pure Minds. It means
using the great name of Amitabha Buddha, which is inherent in our Minds and the
creation of our Minds, as a focal point to concentrate our minds on, so that we
never forget it for a moment.
Nhị
Chủng Cúng Dường: See Nhị Cúng Dường in
Vietnamese-English Section.
Nhị
Chủng Điên Đảo: Two conditions for being upside
down—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Bảy, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan về
hai loại điên đảo như sau: “Ông A Nan! Ông muốn tu chân tam ma địa, thẳng đến
đại Niết Bàn của Như Lai, trước hết phải biết hai thứ điên đảo là chúng sanh và
thế giới. Nếu điên đảo không sinh, đó là chân tam ma địa của Như
Lai.”—According to the Surangama Sutra, book Seven, the Buddha reminded Ananda
about the two conditions for being upside down as follows: “Ananda! You now
wish to cultivate true samadhi and arrive directly at the Thus Come One’
Parinirvana, first, you should recognize the two upside-down causes of living
beings and the world. If this upside-down state is not produced, then there is
the Thus Come One’s true samadhi.”
1) Chúng Sanh Điên Đảo: Upside-down state of living beings—Ông
A Nan! Thế nào gọi là chúng sanh điên đảo? Ông A Nan! Do tính minh tâm, cái
tính sáng suốt viên mãn. Nhân cái vọnh minh phát ra vọng tính. Cái tính hư vọng
sinh ra cái tri kiến hư vọng. Từ rốt ráo không sinh rốt ráo có. Do cái năng hữu
ấy, mới có những cái sở hữu. Chẳng phải nhân thành sở nhân. Rồi có cái
tướng trụ và sở trụ. Trọn không căn bản. Gốc không có chỗ y trụ, gây dựng ra
thế giới và chúng sanh. Mê cái tính bản nguyên minh, mới sinh ra hư vọng. Vọng
tính không có tự thể, chẳng phải là có chỗ sở y. Toan muốn trở lại chân. Cái
muốn chân đó chẳng phải thật là chân như tính. Chẳng phải chân mà cầu trở lại
chân, hóa ra thành hư vọng tướng. Chẳng phải: “sinh, trụ, tâm, pháp,” lần lữa
phát sinh, sinh lực tăng tiến mãi, huân tập thành nghiệp. Đồng nghiệp cảm nhau.
Nhân có cảm nghiệp, diệt nhau sinh nhau. Do đó nên có chúng sanh điên
đảo—Ananda! What is meant by the upside-down state of living beings? Ananda!
The reason that the nature of the mind is bright is that the nature itself is
the perfection of brightness. By adding brightness, another nature arises, and
rom that false nature, views are produced, so that from absolute nothingness
comes ultimate existence. All that exists comes from this; every cause in fact
has no cause. Subjective reliance on objective appearances is basically
groundless. Thus, upon what is fundamentally unreliable, one set up the world
and living beings. Confusion about one’s basic, perfect understanding
results in the arising of falseness. The nature of falseness is devoid of
substance; it is not something which can be relied upon. One may wish to return
to the truth, but that wish for truth is already a falseness. The real nature
of true suchness is not a truth that one can seek to return to. By doing so one
misses the mark. What basically is not produced, what basically does not dwell,
what basically is not the mind, and what basically are not dharmas
arise through interaction. As they arise more and more strongly, they
form the propensity to create karma. Similar karma sets up a mutual
stimulus. Because of the karma thus generated, there is mutual production and
mutual extinction. That is the reason for the upside-down state of living
beings.
2) Thế Giới Điên Đảo: Upside-down state of the world—Ông A Nan!
Thế nào gọi là thế giới điên đảo? Cái có và cái bị có ấy, nhân hư vọng sinh,
nhân đó giới lập. Chẳng phải nhân, sở nhân, không trụ và sở trụ, thiên lưu
chẳng dừng. Nhân đó thế lập. Ba đời bốn phương hòa hợp xen nhau, biến hóa chúng
sanh thành 12 loại (see Thập Nhị Loại Chúng Sanh). Bởi đó thế giới nhân động có
tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc
có vị, nhân vị biết pháp. Sáu thứ vọng tưởng nhiễu loạn thành nghiệp tính. Mười
hai thứ phân ra khác. Do đó lưu chuyển, nên ở thế gian “tiếng, hương, vị, xúc,”
cùng 12 biến hóa xoay vần thành một vòng lẩn quẩn. Nhân các tướng điên đảo luân
chuyển ấy, mới có thế giới: các loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh,
loài có sắc, loài không sắc, loài có tưởng, loài không tưởng, loài chẳng phải
có sắc, loài chẳng phải không sắc, loài chẳng phải có tưởng, loài chẳng phải
không tưởng. Ông A Nan! Chúng sanh trong mỗi loại đều đủ 12 thứ điên đảo. Ví
như lấy tay ấn vào con mắt, thấy hoa đốm phát sinh. Hư vọng loạn tưởng điên đảo
và chân tịnh minh tâm cũng như thế.”—Ananda! What is meant by the upside-down
state of the world? All that exists comes from this; the world is set up
because of the false arising of sections and shares. Every cause in fact has no
cause; everything that is dependent has nothing on which it is dependent, and
so it shifts and slides and is unreliable. Because of this, the world of the
three periods of time and four directions comes into being. Their union and
interaction bring about changes which result in the twelve categories of living
beings. That is why, in this world, movement brings about sounds, sounds bring
about forms, forms bring about smells, smells bring about contact, contact
brings about tastes, and tastes bring about awareness of dharmas. The random
false thinking resulting from these six creates karma, and this continuous
revolving becomes the cause of twelve different categories. And so, in the
world, sounds, smells, tastes, contact, and the like, are each transformed
throughout the twelve categories to make one complete cycle. The appearance of
being upside down is based on this continuous process. Therefore, in the
world, there are those born from eggs, those born from womb, those born
from moisture, , those born by transformation, those with form, those
without form, those with thought, those without thought, those not totally
endowed with form, those not totally lacking form, those not totally endowed
with thought, and those not totally lacking thought. Ananda! Each of these
categories of beings is replete with all twelve kinds of upside-down states,
just as pressing on one’s eye produces a variety of flower-like images. With
the inversion of wonderful perfection, the truly pure, bright mind becomes
glutted with false and random thoughts.
***
For more information, please see Thập
Nhị Loại Chúng Sanh.
Nhị
Chủng Định: Hai loại định—There are two kinds
of samadhi:
1) Tán Định: Thiền định tổng quát hay tản mạn của Dục
Giới—Scattered or general meditation in the world of desire.
2) Thiền Định: Thiền định trong cõi Sắc giới hay Vô Sắc
giới—Abstract meditation in the realms of form and beyond form.
Nhị
Chủng Hữu: Theo Thanh Tịnh Đạo, có hai loại
Hữu—According to the Path of Purification, there are two kinds of becoming.
1) Nghiệp Hữu: Karma-process becoming—Chính tiến trình nghiệp
là hữu, thì gọi là nghiệp hữu. Nghiệp cần được hiểu là hữu vì nó đem lại hữu
hay sự tái sanh. Trước hết, nghiệp hữu nói vắn tắt là hành và các pháp tham
dục, vân vân, tương ưng với hành cũng được xem là nghiệp. Nghiệp hữu bao gồm
phước hành, phi phước hành, bất động hành, ở bình diện nhỏ (hữu hạn) hay bình
diện lớn (đại hành). Tất cả những nghiệp đưa đến sự tái sanh đều là nghiệp
hữu—The karma-process itself is karma-process becoming. The karma should be
understood as becoming. The karma-process becoming in brief is both volition
also and the states covetousness, etc., associated with the volition and
reckoned as karma too. Karma-process becoming consists of the formation of
merit, the formation of demerit, the formation of the imperturbable, either
with a small (limited) plane or with a large plane. All karmas that lead to
becoming are called karma-process becoming.
2) Sinh Hữu: Rebirth-process becoming.
a) Chính tiến trình tái sanh là hữu thì gọi là sanh hữu. Tái
sanh là hữu vì nó hiện hữu. Sanh hữu nói vắn tắt là các uẩn do nghiệp
sanh—Rebirth is becoming since it becomes. Rebirth-process becoming briefly is
aggregates generated by karma.
b) Sanh hữu gồm chín loại: It is of nine kinds:
· Dục hữu: Loại hữu có dục
vọng—Sense-desire becoming, the kind of becoming possessed of sense-desires.
· Sắc hữu: Loại hữu có
sắc—Fine-material becoming, the kind of becoming possessed of fine material.
· Vô sắc hữu: Loại hữu vô
sắc—Immaterial becoming, the kind of becoming possessed of immaterial.
· Tưởng hữu: Loại hữu có
tưởng—Percipient becoming, the kind of becoming possessed of perception.
· Vô tưởng hữu: Loại hữu không có
tưởng—Non-percipient becoming, the kind of becoming possessed of
non-perception.
· Phi tưởng phi phi tưởng hữu: Loại
hữu không có tưởng mà cũng không có không
tưởng—Neither-percipient-nor-non-percipient becoming, the kind of becoming
possessed of neither perception nor non-perception.
· Hữu nhất uẩn: Loại hữu có một
uẩn—One-constituent becoming, the kind of becoming possessed of one
constituent.
· Hữu tứ uẩn: Loại hữu có bốn
uẩn—Four-constituent becoming, the kind of becoming possessed of four
constituents.
· Hữu ngũ uẩn: Loại hữu có năm
uẩn—Five-constituent becoming, the kind of becoming possessed of five
constituents.
Nhị
Chủng Hữu Tri Thức: Two kinds of advisor.
1) Thiện Hữu Tri Thức: Good advisor—See Thiện Hữu Tri Thức.
2) Ác Hữu Tri Thức: Bad advisor—See Ác Tri Thức.
Nhị
Chủng Khất Sĩ: Hai loại khất sĩ—Two kinds of
mendicant:
1) Nội Khất: Người có khả năng tự kềm chế nội tâm—Those who are
able to self-control his or her internal mental or spiritual methods.
2) Ngoại Khất: Người có khả năng tự kềm chế những hình thức bên
ngoài—Those who are able to self-control his or her externals such as strict
diet.
Nhị
Chủng Luật Nghi: Two kinds of rules or customs.
1) Ác Luật Nghi: Bad, or evil rules and customs.
2) Thiện Luật Nghi: Good rules and customs.
Nhị
Chủng Lực: Two kinds of power—Hàng phàm phu
nghiệp ác sâu dầy, đầy đủ tất cả phiền não, dù có ít nhiều công đức tu hành,
hoặc chướng vẫn chưa vơi, được trong muôn một. Cõi Cực Lạc rất trang nghiêm
thanh tịnh, còn siêu việt hơn tam giới, thế thì hạng phàm phu làm sao được vãng
sanh? Theo Trí Giả và Thiên Như Đại Sư trong Tịnh Độ Thập Nghi Hoặc Vấn Luận,
có hai loại lực—Ordinary people are entirely enmeshed in heavy evil karma and
are full of all kinds of afflictions. Even though they may have some virtues as
a result of cultivation, they find it difficult to sever even a fraction of
their defilements and hindrances. The Land of Ultimate Bliss, on the other
hand, is extremely purely adorned, transcending the Triple Realm. How can such
depraved common mortals hope to be reborn there? According to Masters Chih-I
and T’ien-Ju in the Pure Land Buddhism, there are two kinds of power.
1) Tự Lực—Self-power: Về tự lực, hàng cụ phược phàm phu ở thế
giới nầy tuy có đôi chút tu hành, thật ra chưa có thể sanh về Tịnh Độ và chưa
xứng đáng được ở Tịnh Độ. Kinh Anh Lạc nói: “Từ địa vị cụ phược phàm phu chưa
biết Tam Bảo và nhân quả thiện ác, trước tiên mới phát tâm Bồ Đề phải lấy tín
làm gốc, đến khi vào đạo Phật lại lấy giới làm nền tảng. Hạng phàm phu
nầy khi mới thọ Bồ Tát giới, nếu mỗi đời cứ tiếp tục giữ giới như thế không cho
khuyết phạm, trải qua ba kiếp mới đến địa vị sơ phát tâm trụ. Lại cứ như thế mà
tu thập tín, thập ba la mật cùng vô lượng hạnh nguyện, nối nhau không gián
đoạn, mãn một vạn kiếp mới đến ngôi đệ lục Chánh Tâm trụ. Khi tiến lên đệ thất
Bất Thối trụ tức là đã vào chủng tánh vị, nhưng địa vị nầy cũng chưa được sanh
về Tịnh Độ—As far as self-power is concerned, while the ordinary beings of this
world, totally bound by their attachments and afflictions, may have some level
of cultivation, in reality, they still cannot be reborn in the Pure Land nor
deserve to reside there. The Peace and Bliss Collections states: “Those who
first develop the Bodhi Mind, starting from the level of completely fettered
ordinary people ignorant of the Three Treasures and the Law of cause and
Effect, should base themselves initially on faith. Next, when they have
embarked upon the Bodhi path, the precepts should serve as their foundation. If
these ordinary people accept the Bodhisattva precepts and continue to uphold
them unfailingly and without interruption for three kalpas, they will reach the
First Abode of Bodhisattvahood. If they pursue their cultivation in this manner
through the Ten Paramitas as well as countless vows and practices, one after
another without interruption, at the end of ten thousand kalpas they will reach
the Sixth Abode of Bodhisattvahood. Should they continue still further, they
will reach the Seventh Abode or Non-Retrogression. They will then have entered
the stage of the ‘Seed of Buddhahood,’ i.e., they are assured of eventual
Buddhahood. However, even then, they still cannot achieve rebirth in the Pure
Land.
2) Tha Lực—Other-power: Về tha lực, nếu kẻ nào tin nơi nguyện lực
đại bi nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật của Đức Phật A Di Đà, rồi phát lòng Bồ Đề
tu môn Niệm Phật Tam Muội, chán thân hữu lậu trong ba cõi, thực hành bố thí,
trì giới, cùng các phước nghiệp, mỗi hạnh đều hồi hướng nguyện sanh Tây Phương
Cực Lạc thì cơ cảm hợp nhau, nương nhờ Phật lực liền được vãng sanh—With regard
to other-power, if anyone believes in the power of Amitabha Buddha’s
compassionate vow to rescue sentient beings and then develops the Bodhi-Mind,
cultivates the Buddha Remembrance (Recitation) Samadhi, grows weary of
his temporal, impure body in the Triple Realm, practices charity, upholds the
precepts and performs other meritorious deeds, dedicating all the merits and
virtues to rebirth in the Western Pure Land, his aspirations and the Buddha’s
response will be in accord. Relying thus on the Buddha’s power, he will
immediately achieve rebirth.
Nhị
Chủng Nghiệp: Hai loại nghiệp—There are two
kinds of karma:
(A)
1) Nghiệp cố ý sẽ phải mang nghiệp quả nặng nề: Intentional
karma which bears much heavier karma vipaka (phala).
2) Nghiệp không cố ý, nghiệp quả nhẹ hơn: Unintentional karma
which bears lighter karma vipaka.
(B)
1) Thiện nghiệp như bố thí, ái ngữ và lợi tha: Wholesome (good)
karma such as giving charity, kind speech, helping others, etc.
2) Bất thiện nghiệp như sát sanh, trộm cắp, nói dối, vọng ngữ:
Unwholesome (bad) karma such as killing, stealing, lying and slandering.
(C) Có hai loại nghiệp theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong Cương
Yếu Triết Học Phật Giáo—There are two kinds of action and action-influence
according to Prof. Junjiro Takakusu in the Essentials of Buddhist Philosophy:
1) Hai loại hành động—Two kinds of action:
a) Dẫn Nghiệp: Drawing action—Dẫn nghiệp đưa một sinh vật thác
sinh làm người, làm trời hay làm thú; không thế lực nào khác có thể đưa một
sinh vật đến một hình thái đặc biệt nào đó của đời sống—Drawing action causes a
being to be born as a man, as a deva, or as an animal; no other force can draw
a living being into a particular form of life.
ii) Mãn Nghiệp: Fulfilling action—Sau
khi mỗi đời sống đã được quyết định, mãn nghiệp sẽ kiện toàn tính chất hữu hình
của sinh vật để nó trở thành một chủng loại hoàn hảo—After the kind of life has
been determined, the fulfilling action completes the formal quality of the
living being so that it will be a thorough specimen of the kind.
2) Hai ảnh hưởng của hành động—Two kinds of action-influence:
i) Biệt Nghiệp:
Individual action-influence—Biệt nghiệp tạo ra cá biệt thể—Individual
action-influence creates the individual being.
ii) Cộng Nghiệp:
Common-action-influence—Cộng nghiệp tạo ra vũ trụ—Common action-influence
creates the universe itself.
Nhị
Chủng Nhân: Two groups of good and evil
people.
(A)
1) Người Lành (kiết nhơn, thiện nhơn)—Good people (virtuous,
kind, wholesome):
a) Người lành thuộc hàng thượng phẩm—Good people who are at the
highest level: Hạng người nầy từ khi mới sanh ra cho đến khi khôn lớn, già
chết, không cần ai dạy bảo cả mà người ấy vẫn luôn làm lành. Đây là những bậc
Thánh Nhân—The people at this level, from the time of their birth until the
time they are mature, and old age and death, do not need anyone to teach them,
yet they always know instinctively to practice goodness. These people are
Saintly Beings.
b) Người lành thuộc hàng trung phẩm—Good people who are at the
intermediate level: Hạng người nầy, trước cần được người nuôi dạy rồi sau đó
mới biết làm lành. Hạng người nầy gọi là bậc Hiền Nhân—The people in this
level, first need to be taught to live wholesomely before they know how to live
a life of goodness and virtues. These people are Good Beings.
2) Người thuộc hàng hạ phẩm—People who are at the lowest level:
Hạng người nầy, tuy là có được người dạy dỗ cẩn thận, mà cũng chẳng chịu làm
việc thiện lành. Đây là hạng Ác Ngu—The people in this level, despite having
being taught carefully, yet refuse to practice goodness, unable to love an
ethical life. These people are Wicked and Ignorant Beings.
(B)
1) Hạng người học rộng nghe nhiều, mà lại không bao giờ biết y
theo các điều đã nghe học đó mà tu sửa và thực hành: Those who have high
education, but they are never willing to practice and cultivate the knowledge
they gained.
a) Nếu người học rộng nghe nhiều mà trong tâm không có đạo, tất
nhiên kiến văn quảng bác do đó mà sanh khởi ra tánh tự cao, xem thường những kẻ
khác có sự hiểu biết chẳng bằng mình. Dần dần kết thành cái tội khinh
mạn, và đưa đến việc bài bác tất cả mọi lý luận trái ngược với sở kiến của
mình. Chính vì thế mà sanh ra tâm “Tăng Thượng Mạn,” nghĩa là mình không hay mà
cho rằng mình hay, không giỏi mà cứ cho là giỏi, không chứng mà cho là chứng;
từ đó không chịu tu sửa gì cả. Hơn nữa, nếu chỉ muốn nghiên cứu Phật pháp với
mục đích biết để chơi hay biết để đem sự hiểu biết của mình đi chất vấn Thầy
bạn, làm cho người chưa học tới cảm thấy lúng túng, không thể trả lời được, để
từ đó cảm thấy tự mãn rồi cười chê, nhạo báng và tự cho mình là tài giỏi thì
chẳng nên: If those who have a broad education and vast knowledge, and who are
well-read, but their minds lack faith in religion, naturally, tis will often
give rise to conceit, looking down on others as not being their equal in
knowledge and understanding. Gradually, this becomes the offense of
“arrogance,” which leads them to reject any other thoughts and philosophies
that oppose what they believe. This then gives rise to the mind of “Highest
Egotism,” meaning they are talented, not cultivating for change but claim to
others they cultivate for change, not attaining enlightenment, but claim to
have attained, etc. Furthermore, if you are interested only in examining the
Buddhist teachings with the intention of knowing it for fun, or use that
knowledge and understanding to cause harm to others, causing people who have
not well-learned to feel confused, unable to answer questions you raise to them
in order for you to laugh and ridicule with arrogance, assuming you are a man
of great knowledge, then please do not do this.
b) Nếu người có kiến thức rộng rãi về Phật pháp, lại tiếp tục
nghiên cứu giáo lý của đạo Phật với mục đích học hỏi để hướng thượng và hồi tâm
tu hành theo Phật, nguyện có ngày xa lìa được bể khổ sông mê, để bước lên
bờ giác, thí quý hóa vô cùng, vì trong tương lai chúng ta sẽ có thêm một vị
Phật: If those who have vast knowledge, and continue to study and examine the
philosophical teachings of Buddhism with the intention of learning to strive
for the highest peak and to gather their mind to cultivate the Buddha Dharma,
and vow one day to escape the sea of suffering and the river of ignorance to
cross over to the shore of enlightenment, then that would be excellent because
in the future, we will have another “Future Buddha.”
2) Hạng người ngu dốt tối tăm, nhưng luôn xét mình là một kẻ
phàm phu đầy tham sân si, cùng với vô số tội lỗi chất chồng trong quá khứ, hiện
tại và vị lai, từ đó sanh lòng tàm quí, rồi phát nguyện tu tâm sửa tánh, sám
hối, ăn năn, y theo lời Phật Tổ đã dạy mà hành trì, tu tập, như là tụng kinh,
niệm Phật, ngồi thiền, vân vân, cầu cho nghiệp chướng chóng được tiêu trừ, mau
bước lên bờ giác trong một tương lai rất gần: Ordinary people who always
examine themselves and realize they are just unenlightened mortal filled with
greed, hatred and ignorance, as well as an accumulation of infinite other
transgressions in the past, present and future. From realizing this, they
develop a sense of shame and then vow to change their way, be remorseful,
repent, and give their best to cultivate with vigor such as chanting sutra,
reciting the Buddha’s name, or sitting meditation, seeking to quickly end
karmic obstructions and to attain enlightenment in a very near
future.
Nhị
Chủng Nhân Quả: Hai loại nhân quả—Two aspects of
cause and effect:
1) Nhân quả thế gian: Cause and effect in the present life (khổ
đế là quả: the effect or fruit; tập đế là nhân: the cause).
2) Nhân quả xuất thế gian: Cause and effect in the future (diệt
đế là quả: mortality or extinction is the effect or fruit; đạo đế là nhân: the
path is the cause).
Nhị
Chủng Nhẫn Nhục: Hai loại nhẫn nhục—Two kinds of
patience or endurance:
1) Chúng sanh nhẫn: Patience or endurance of human assaults and
insults.
2) Pháp nhẫn: Patience or endurance of the assaults of nature,
heat, cold, etc.
Nhị
Chủng Nhất Tâm: Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy
rằng “Nhất Tâm Bất Loạn” có thể đạt được trong khoảng thời gian từ một đến bảy
ngày. Người lợi căn có thể niệm trong một ngày là được nhất tâm bất loạn; kẻ
độn căn phải cần đến bảy ngày mới được nhất tâm bất loạn; còn người trung căn
thì không nhất định, có thể hai ngày, hoặc 3, 4, 5, 6 ngày mới được nhất tâm
bất loạn.” Nhất Tâm Bất Loạn có hai thứ—According to the Amitabha Sutra, the
Buddha taught: “One Mind Without Disturb can be achieved from one to seven
days. Those with sharp faculties will be able to reach complete undisturbed
Buddha-remembrance after just one day of invoking the Buddha-name. Those with
dull faculties will only be able to reach complete undisturbed Buddha-remembrance
after seven days of invoking the Buddha-name. Those of middle faculties may
take from two to six days to reach complete undisturbed Buddha-remembrance.”
There are two categories for One Mind or Singleminded Practice:
1) Sự Nhất Tâm: One Mind at the Phenomenal Level—Bất luận là
người “Sự Trì” hay “Lý Trì,” hễ trì đến ngày phục trừ hết mọi phiền não tham,
sân, si, mạn, nghi, tà kiến, cho đến ngày diệt hết hẳn cả kiến hoặc và tư hoặc,
thì cả hai đều là “Sự Nhất Tâm.” Sự nhất tâm thì không còn bị kiến hoặc và tư
hoặc làm rối loạn nữa. Khi tâm mình không còn bị kiến hoặc và tư hoặc làm rối
loạn lúc lâm chung, cũng là lúc mình cảm thấy thân biến hóa của chư Phật và
Thánh chúng hiện ra trước mắt, khi ấy tâm mình chẳng còn biến khởi ra ba cảnh
vật điên đảo, tức là cảnh “Dục giới,” “Sắc giới,” và “Vô sắc giới” ở trong thế
giới Ta bà Nầy nữa, mà mình được đi sinh sống hoặc ở cõi đồng cư, hay cõi
phương tiện ở bên Thế Giới Cực Lạc—Regardless of whether you recite the
Buddha-name at the phenomenal level or the inner truth level, if you invoke the
name of Amitabha until you subdue all afflictions of anger, greed,
ignorance, doubt, wrong views, and put an end to illusions of views and
thoughts, this is the One Mind at the Phenomenal Level, which is not tainted by
delusions of views and thoughts anymore. If you recite the Buddha-name until
you are not deluded by delusions of views and thoughts at the moment of you
death, the response you get is that Amitabha Buddha in his Emanation Body along
with his whole retinue of holy ones will appear before you. Your mind will no
longer create the delusions of desire, form, and formlessness characteristic of
this mundane world “Endurance,” and you will go to be reborn in either the Pure
Land where Saints and Ordinary beings dwell together, or the Pure Land of
Expedient Liberation.
2) Lý Nhất Tâm: One Mind at the Level of Inner Truth—Bất luận
là người “Sự Trì” hay người “Lý Trì,” hễ trì đến ngày Tâm mình mở ra, mình thấy
được Phật của Tâm tính mình, cả hai đều là Lý Nhất Tâm. Lý Nhất Tâm không còn
bị rối loạn bởi tà thuyết nhị biên như nội dung hình thức, niết bàn sanh tử,
Phật và chúng sanh, vân vân. Đây chính là trí tuệ có được do sự tu hành. Lúc
lâm chung mà tâm mình chẳng bị tà thuyết nhị biên làm rối loạn, thì mình sẽ cảm
thấy thân Thụ Dụng của Phật cùng các vị Thánh chúng hiện ra trước mắt. Lúc ấy
tâm mình chẳng còn biến khởi ra hai cảnh vật điên đảo tà kiến là những cảnh
sinh lão bệnh tử của cõi Ta Bà và cảnh trầm không của cõi Niết Bàn, mà ngược
lại mình được sinh sống ở cõi thực báo trang nghiêm, hoặc cõi thường tịch
quang của Thế Giới Cực Lạc—Regardless of whether you recite the
Buddha-name at the phenomenal level or the inner truth level, if you invoke the
name of Amitabha Buddha until your mind opens and you see inherent Buddhahood,
this is the One Mind at the level of inner truth. The One Mind at the inner
truth level is not deluded by the supposed dualisms of essence and form,
nirvana and samsara, Buddhas and sentient beings, etc. This is the wisdom that
comes from cultivating practice. At the time of your death, if you are
not deluded by dualisms, the response you get is that Amitabha Buddha will
appear before you in his Reward Body, along with his whole retinue of
holy ones. Your mind will no longer create the delusions of Samsara and
Nirvana, and you will go to be reborn in either the Pure Land of Real
Reward, or the Pure Land of Eternally Quiescent Light.
Nhị
Chủng Nhất Xiển Đề: Icchantika (skt)—Hai loại Nhất
Xiển Đề—Two kinds of icchantika:
1) Nghiệp báo Nhất xiển đề: Loại người cực ác, đoạn tuyệt thiện
căn vì nghiệp tiền kiến, nên không bao giờ thành Phật—The utterly depraved,
abandoned, and Blasphemers of Buddha-truth owing to the previous karma.
2) Hạnh nguyện Nhất xiển đề: Vì đại nguyện mà các vị Bồ tát
quyết định chưa thành Phật để tiếp tục cứu độ chúng sanh—Owing to the good vow,
bodhisattvas refuse to enter upon their Buddhahood in order to continue to save
all beings.
Nhị
Chủng Niệm Phật: Hai loại niệm Phật—Two kinds of
intonation or calling on the Buddhas:
1) See Thông Niệm Phật.
2) See Biệt Niệm Phật.
Nhị
Chủng Niết Bàn: Two Nirvanas:
1) Hữu dư Niết bàn: Hữu dư y Niết bàn, Niết bàn mà nhân đã
ngừng hẳn, nhưng quả vẫn còn dư lại, như vậy một vị Thánh có thể nhập Niết bàn,
nhưng phải sống trong thế giới sanh tử cho đến thân chết—Incomplete Nirvana
where causes of reincarnation are ended—Nirvana in which all causes have been
annihilated, but the remnant of the effect still remains, so that a saint may
enter this nirvana during life, but may have to continue to live in this mortal
realm till the death of his body.
2) Vô dư Niết bàn: Vô dư y Niết bàn, Niết bàn cuối cùng, nơi
không còn nhân quả, không còn liên hệ với luân hồi sanh tử, vị Thánh nhập Vô dư
Niết bàn khi thân chết—Final Nirvana, where all effects are ended—Remnantless
nirvana, without cause and effect, the connection with the chain of mortal life
being ended, so that the saint enters upon perfect nirvana on the death of his
body.
Nhị
Chủng Pháp Thân: Two kinds of dharmakaya—See Nhị
Pháp Thân.
Nhị
Chủng Phân Biệt: Theo Kinh Lăng Già, có hai loại
phân biệt, tổng phân biệt và biến phân biệt; tuy nhiên, nghĩa của chúng gần như
không sai khác—According to the Lankavatara Sutra, there are two kinds of
discrimination: samkalpa or general discrimination, and parikalpa; however,
their meanings are almost the same.
Nhị
Chủng Phật Cảnh: Hai cảnh giới Phật—Two Buddha
domains:
1) Chứng cảnh: Cảnh giới mà chư Phật chứng được—Lý Chân Như
pháp tánh—The domain or state of absolute enlightenment.
2) Hóa cảnh: Cảnh giới mà chư Phật biến hóa ra hay là Tây
phương quốc độ—The domain that the Buddhas are transforming or the Pure Land.
Nhị
Chủng Quán Đảnh: Hai loại quán đảnh—Two forms of
esoteric baptism—See Quán Đảnh in Vietnamese-English Section.
Nhị
Chủng Quang Minh: Hai loại ánh sáng—See Nhị Quang
Minh.
Nhị
Chủng Sanh Tử: Hai loại sanh tử—Two kinds of life
and death:
1) Phân Đoạn Sanh Tử: Quả báo trong tam đồ lục đạo của các
nghiệp thiện ác, thân được tạo thành do quả báo nầy có từng phần từng đoạn (chỉ
hết thảy phàm phu có đủ kiến tư hoặc)—The various karmic transmigrations.
2) Bất Tư Nghì Biến Dịch Sanh Tử: Quả báo Tịnh độ giới của
nghiệp vô lậu. Đây là sự sanh tử của các bậc Thánh đã đoạn hết kiến tư hoặc—The
inconceivable transformation life in the Pure Land, the transformation of the
arhats and other saints.
Nhị
Chủng Tà Kiến: Hai loại tà kiến—The two false
views:
(A)
1) Thường kiến: Những người theo chủ nghĩa vật chất duy trì
cuộc sống đạo đức vì lợi ích của tự thân, tìm cầu hạnh phúc trần tục, và không
nắm bắt được Niết bàn—Materialistics who maintained the moral life in the
interests of self, sought earthly happiness, and failed to apprehend nirvana.
2) Đoạn kiến: Người theo chủ nghĩa đoạn kiến phủ nhận hạnh phúc
trần tục tùy thuộc vào cuộc sống đạo đức—Nihilistics who denied that earthly happiness is dependent on a moral life.
(B)
1) Phá thế gian lạc tà kiến: Những người duy trì lối sống vì
lợi ích vị kỷ—Those who maintain the moral life in the interests of self.
2) Phá Niết Bàn đạo tà kiến: Những người chủ trương theo đuổi
phước báo nhơn thiên mà chẳng được Niết Bàn—Those who seek earthly happiness,
and fail to apprehend Nirvana.
Nhị
Chủng Tâm Tướng: Hai loại tâm tướng—Two kinds of
mind:
1) Nội tâm tướng: Bản tâm thanh tịnh bình đẳng bên trong—The
mind in its inner character and influence.
2) Ngoại tâm tướng: Theo duyên mà hiện ra các đối cảnh—The in
its outer manifestations.
Nhị
Chủng Thanh Tịnh: Theo kinh Hoa Nghiêm, có hai loại
thanh tịnh—According to the Flower Ornament Scripture, there are two kinds of
purity:
1) Tự tính thanh tịnh: Chân như thanh tịnh—The natural purity.
2) Ly cấu thanh tịnh: Đạt được tâm thể thanh tịnh bằng cách xa
lìa mọi ô nhiễm—Acquired purity through avoiding pollution.
Nhị
Chủng Thánh: Hai loại Thánh—Two classes of
saints or preachers:
1) Hữu ngôn Thánh: Those who preach with words (Pháp sư).
2) Vô ngôn Thánh: Những vị Thánh nêu gương bằng những phẩm hạnh
cao tuyệt chứ không nói một lời—Those who preach without words, but examplify
themselves with good morality.
Nhị
Chủng Thế Giới: Two kinds of world.
1) Hữu Tình Thế Giới: Thế giới của loài hữu tình có thân
thể—The world of the living, who are receiving their correct recompense.
2) Khí Thế Giới: Thế giới vật lý hay địa phương nơi loài hữu
tình cư trú (các loài hữu tình, theo luận điểm vật chất hay tinh thần, được
chia thành ba cõi—The world of the material, or that on which karma depends for
expression. The world of material is divided into three realms.
a) Dục Giới: Kamadhatu (skt)—See Dục Giới (B) and (C).
b) Sắc Giới: Rupadhatu (skt)—See Sắc Giới, and Tứ Thiền Thiên.
c) Vô Sắc Giới: Arupadhatu (skt)—See Vô Sắc Giới, and Tứ Không
Xứ.
Nhị
Chủng Thí: See nhị bố thí.
Nhị
Chủng Thiền: Two kinds of contemplation.
1) Sự Thiền: The dhyana of or concentration on phenomena—See Sự
Thiền.
2) Lý Thiền: The dhyana of or concentration on the absolute
truth—See Lý Thiền.
Nhị
Chủng Thọ Ký: Hai loại thọ ký—Two classes of
Buddha’s predictions of a disciple’s destiny:
1) Hữu dư thọ ký: Đức Phật nói vào thời nào trong tương lai thì
vị Phật nào sẽ thọ ký cho chúng sanh—Partial or incomplete prediction—The
Buddha predicted what Buddha would make a prediction for sentient being in
certain periods of time in the future.
2) Vô dư thọ ký: Đức Phật thọ ký về sự thành Phật của một chúng
sanh—Prediction in finality, or complete detail of becoming Buddha of a
sentient being.
Nhị
Chủng Thoát Tục: Hai loại thoát tục—Two kinds of
seclusion:
1) Thân thoát tục: Bodily withdrawal into seclusion.
2) Tâm thoát tục: Spiritual withdrawal from all evil, and into
meditation.
Nhị
Chủng Tịch Tịnh: Hai loại tịch tịnh—Two kinds of
seclusion or retirement from the world:
1) Thân tịch tịnh: Tự thân lìa bỏ gia đình để sống đời thanh
thản yên tĩnh—Bodily withdrawal into seclusion.
2) Tâm tịch tịnh: Nhờ tu thiền định mà tâm đoạn lìa tất cả
những điều ác—Spiritual withdrawal from all evil and into meditation.
Nhị
Chủng Tín: Two forms of faith—See Nhị Tín.
Nhị
Chủng Tinh Tấn: Theo Đại Trí Độ Luận, có hai loại
tinh tấn—According to the Maha-Paramita-Sastra, there are two kinds of virya:
1) Thân Tinh Tấn: Như vẫn sinh hoạt mang đến của cải, nhưng lại
dùng vào việc bố thí—The fortitude in body, i.e. use earned properties in
almsgiving—See Bát Chánh Đạo (4) (5) (6).
2) Tâm Tinh Tấn: Dứt bỏ tham dục, ác tâm, cũng như tà kiến—The
vigour in mind, i.e. cut off all passions, evil mind, and wrong views—See Bát
Chánh Đạo (1) (2) (6).
Nhị
Chủng Tính: Hai loại tính—Two kinds of
seed-nature (the character of the alaya seed and its development):
(A)
1) Tính chủng tử: Bản tính thiện từ vô thủy –The original good
seed-nature.
2) Tập chủng tử: Chủng tính thiện do tu tập mà phát triển—The
seed-nature in practice or development.
(B)
1) Bổn tính trụ chủng tính: Bản tính tự nhiên từ vô thủy—The
immanent abiding original good seed-nature.
2) Tập sở thành chủng tính: Chủng tính mới được huân tập—The
seed productive according to its ground.
(C)
1) Thánh chủng tính: Hạt giống chứng quả Niết Bàn của bậc Thánh
tam thừa—The seed-nature of the saints, by which they attain nirvana.
2) Phàm phu chủng tính: Ngu phu chủng tính, hay chủng tính phàm
phu ngu muội cố bám giữ lấy chư pháp (hạt giống nầy có khả năng sinh sản, còn
tính là do rèn tập mà có chứ không phải là tính của lý tính)—The seed-nature in
the foolish and ignorant.
Nhị
Chủng Trang Nghiêm: Two kinds of adornment—See
Nhị Trang Nghiêm.
Nhị
Chủng Trí: Two kinds of wisdom:
1) Tướng Trí: Hữu lậu trí hay trí nương vào sự tướng thế gian
và hãy còn quan hệ với phiền não—Knowledge derived from phenomena, associated
with afflictions.
2) Phật Trí: Vô lậu trí, cắt đứt liên hệ với phiền não—Buddha
wisdom, no longer associated with afflictions.
**
For more information, please see Nhị Trí.
Nhị
Chủng Tu Đạo: Two paths of cultivation—See Hai
Lối Tu Hành.
Nhị
Chủng Tư Lương: Theo Kinh Bảo Tích, có hai loại
trang nghiêm—According to The Ratna-rasi or Ratna-kuta sutra (Gem-Heap sutra),
there are two kinds spiritual provender:
1) Phúc đức tư lương: Bố thí công đức thiện căn để trì giới,
nhẫn nhục, và tinh tấn—Charity, the first four paramitas in the six paramitas.
2) Trí đức tư lương: Tu tập thiền quán và tinh chuyên tìm cầu
Diệu Giác, hay là ba Ba La Mật sau cùng—Wisdom, the last three paramitas.
Nhị
Chủng Tử: Hai loại chủng tử—Two kinds of
seeds:
(A)
1) Danh ngôn chủng tử (Bổn hữu chủng tử): Chủng tử là nhân tạo
ra tất cả mọi pháp thiện ác—Seed which causes moral action—Good or evil seeds
produce good or evil deeds.
2) Nghiệp chủng tử: Chủng tử gây ra bởi nghiệp tạo tác thiện ác
nơi tâm sở rồi huân tập nơi thức thứ tám—Karma seed, the sixth (mind
consciousness) acting with the eighth (Alaya consciousness).
(B)
1) Bổn hữu chủng tử: The seed or latent undivided moral force
immanent in the highest of the Alaya consciousness.
2) Thân huân chủng tử: The newly influenced or active seed when
acted upon by the seven other consciousness, thus becoming productive.
(C) Two kinds of death:
1) Mệnh tận tử: Natural death.
2) Ngoại duyên tử: Violent death or death caused by external
causes.
Nhị
Chủng Tỳ Kheo: Hai loại Tỳ Kheo—Two classes of
monks:
1) Đa văn tỳ kheo: Monks who hear and repeat many sutras, but
are not devoted doers.
2) Quả thiển tỳ kheo: Those who read and repeat few sutras, but
are devoted in their lives.
Nhị
Chủng Vọng Kiến: Two kinds of upside-down
discriminating false views—Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Nhì, Đức Phật đã
nhắc nhở ngài A Nan về hai loại vọng kiến như sau: “Ông A Nan! Tất cả chúng
sanh bị trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử ở thế gian, là do bởi hai thứ vọng
kiến. Hai thứ nhìn sai lầm đó làm cho chúng sanh thấy có cảnh giới, và bị lôi
cuốn trong vòng nghiệp. Hai thứ vọng kiến đó là vọng kiến biệt nghiệp của chúng
sanh và vọng kiến đồng phận của chúng sanh.”—In the Surangama Sutra, the Buddha
reminded Ananda about two kinds of upside-down discriminating false views as
follows: “Ananda! All living beings turn on the wheel in this world because of
two upside-down discriminating false views. Wherever these views arise, there
is revolution through the cycle of appropriate karma. What are the two
views? The first consists of the false view based on living beings’ individual
karma. The second consists of the false view based on living beings’ collective
karma.”
1) Vọng Kiến Biệt Nghiệp là gì? Ông A Nan! Như người bị đau
mắt, ban đêm nhìn vào ngọn đèn, thấy có năm màu sắc tròn chung quanh ngọn lửa
sáng—What is meant by false views based on individual karma? Ananda! It is like
a man in the world who has red cataracts on his eyes so that at night he alone
sees around the lamp a circular reflection composed of layers of five colors.
a) Ông nghĩ thế nào? Cái ảnh tròn năm màu sắc đó là màu sắc của
đèn hay màu sắc của cái thấy? What do you think? Is the circle of light that
appears around the lamp at night the lamp’s color, or is it the seeing’s
colors?
· Ông A Nan! Nếu là màu sắc của đèn,
sao chỉ một mình người đau mắt thấy. Nếu là màu sắc của tính thấy, thì
tính thấy đã thành màu sắc, còn cái thấy của người mắt đau gọi là gì?—Ananda!
If it is the lamp’s colors, why is it that someone without the disease
does not see the same thing, and only the one who is diseased sees the circular
reflection? If it is the seeing’s colors, then the seeing has already become
colored; what, then, is the circular reflection the diseased man sees to be
called?
· Lại nữa, ông A Nan, nếu cái ảnh tròn
kia, rời đèn mà riêng có, thì khi nhìn bình phong, trướng, ghế, bàn, cũng phải
có ảnh tròn hiện ra chứ—Moreover, Ananda, if the circular reflection is in
itself a thing apart from the lamp, then it would be seen around the folding
screen, the curtain, the table, and the mats.
· Nếu rời tính thấy mà riêng có, thì
mắt có thể không thấy. Nay mắt thấy thì biết không rời được—If it has nothing
to do with the seeing, it should not be seen by the eyes. Why is it that the
man with cataracts sees the circular reflections with his eyes?
b) Vậy nên biết rằng—Therefore, you should know that:
· Màu sắc thật ở nơi đèn. Cái thấy
bệnh nhìn lầm ra ảnh năm sắc. Cái ảnh và cái thấy đều là bệnh. Nhưng cái thấy
biết là bệnh đó, không phải là bệnh. Đừng nên nói là đèn, là thấy, và chẳng
phải đèn, chẳng phải thấy—In fact the colors come from the lamp, and the
diseased seeing bring about the reflection. Both the circular reflection and
the faulty seeing are the result of the cataract. But that which sees the
diseased film is not sick. Thus you should not say that it is the lamp or the
seeing or that it is neither the lamp nor the seeing.
· Ví dụ mặt trăng thứ hai, vì dụi mắt
mà thấy, vậy không phải là mặt trăng, hay là bóng của trăng. Cái ảnh năm sắc
cũng vậy, vì mắt bệnh mà thành, không nên nói là tại đèn hay tại thấy—It is
like a second moon often seen when one presses on one’s eye while looking up
into the sky. It is neither substantial nor a reflection because it is an
illusory vision caused by the pressure exerted on one’s eye. Hence, a wise
person should not say that the second moon is a form or not a form. Nor is it
correct to say that the illusory second moon is apart from the seeing or not
apart from the seeing. It is the same with the illusion created by the diseased
eyes. You cannot say it is from the lamp or from the seeing: even less can it
be said not to be from the lamp or the seeing.
2) Vọng Kiến Đồng Phận—False View of the collecting share:
a) Ông A Nan! Trong cõi Diêm Phù Đề, trừ phần nước nơi các biển
lớn, phần đất bằng ở giữa có đến ba ngàn châu. Châu lớn chính giữa bao trùm cả
Đông Tây—What is meant by the false view of the collective share? Ananda! In
Jambudvipa, besides the waters of the great seas, there is level land that
forms some three thousand continents. East and West, throughout the
entire expanse of the great continent.
· Có độ hai ngàn ba trăm nước lớn. Các
châu nhỏ ở giữa biển, hoặc vài trăm nước, hoặc một, hoặc hai nước, cho đến ba
mươi, bốn mươi năm mươi nước—There are twenty-three hundred large countries. In
other, small or perhaps one or two, or perhaps thirty, forty, or fifty.
· Ông A Nan! Trong đám đó có một châu
nhỏ, chỉ có hai nước. Người trong một nước cùng cảm với ác duyên, chúng sanh
trong nước ấy thấy những cảnh giới không lành, hoặc thấy hai mặt trời, hoặc
thấy hai mặt trăng. Họ lại thấy những ác tướng như: các quầng chung quanh mặt
trời, mặt trăng; nguyệt thực, nhật thực, những vết đen trên mặt trời, mặt
trăng, sao chổi, sao phướn, sao băng, nhiều sao băng thành chùm, các thứ mống,
vân vân. Chỉ nước ấy thấy. Còn chúng sanh ở nước bên kia không hề thấy hay nghe
những thứ trên—Ananda! Suppose that among them there is one small continent
where there are only two countries. The people of just one of the countries
together experience evil conditions. On that small continent, all the people of
that country see all kinds of inauspicious things: perhaps they see two suns,
perhaps they see two moons with circles, or a dark haze, or girdle-ornaments
around them; or comets, shooting stars, ‘ears’ on the sun or moon, eainbows,
secondary rainbows, and various other evil signs. Only the people in that
country see them. The living beings in the other country from the first do not
see or hear anything unusual.
b) Ông A Nan! Nay tôi vì ông lấy hai thứ vọng kiến trên giải
thích cho rõ—Ananda! I will now go back and forth comparing these two matters
for you, to make both of them clear:
· Như người đau mắt thấy cái ảnh tròn
năm sắc ở đèn sáng. Đó là do lỗi bệnh mắt, chứ không phải do lỗi ở tính thấy,
cũng không phải sắc đèn tạo ra—Ananda! In the case of the living being’s false
view of individual karma by which he sees the appearance of a circular
reflection around the lamp, the appearance seems to be a state, but in the end,
what is seen comes into being because of the cataracts on the eyes. The
cataracts are the results of the weariness of the seeing rather than the
products of form. However, the essence of seeing which perceives the cataracts
is free from all diseases and defects.
· Lấy đó mà so sánh, nay ông và chúng
sanh thấy núi sông, cảnh vật, đều là từ vô thủy, cái thấy bệnh thấy như thế.
Cái vọng kiến và cảnh vật dều là hư vọng, tùy duyên hiện tiền. Còn cái giác
minh biết vọng cảnh, vọng kiến là bệnh, thì không phải bệnh hay mê lầm, mà lúc
nào cũng sáng suốt. Chân kiến thấy rõ vọng kiến là bệnh, thì nó không bị bệnh,
mà vẫn sáng suốt. Vậy câu lúc trước ông bảo ‘kiến văn giác tri,’ chỉ là vọng
kiến mà thôi. Vậy nay ông thấy tôi, ông và chúng sanh đều là cái thấy bệnh. Còn
cái ‘kiến chân tinh tính’ không phải bệnh nên không gọi là thấy—For example,
you now use your eyes to look at the mountains, the rivers, the countries, and
all the living beings: and they are all brought about by the disease of your
seeing contracted since time without beginning. Seeing and the conditions of
seeing seem to manifest what is before you. Originally my enlightenment is
bright. The seeing and conditions arise from the cataracts. Realize that the
seeing arise from the cataracts: the enlightened condition of the basically
enlightened bright mind has no cataracts. That which is aware of the faulty
awareness is not diseased. It is the true perception of seeing. How can you
continue to speak of feeling, hearing, knowing, and seeing? Therefore,
you now see me and yourself and the world and all the ten kinds of living
beings because of a disease in the seeing. What is aware of the disease is not
diseased. The true essential seeing by nature has no disease. Therefore, it is
not called seeing.
c) Ông A Nan! Có thể lấy cái vọng kiến đồng phận của chúng sanh
đã nói trên, so sánh với cái vọng kiến biệt nghiệp của một người. Cái ảnh tròn
của một người thấy do đau mắt, và những cảnh lạ do chúng sanh một nước thấy,
đều là cái hư vọng kiến sinh ra từ vô thủy. Khắp cả mười phương thế giới chúng
sanh đều thuộc phạm vi vọng. Các duyên hòa hợp sinh ra, các duyên hòa hợp
mất. Nếu đứng về cảnh giới Phật, đều thấy đó là hư vọng. Nếu có thể xa lìa các
‘hòa hợp duyên’ và ‘không hòa hợp duyên,’ thì đã diệt trừ các nhân sinh tử, chứng
được chân lý, tức cảnh giới Phật—Ananda! Let us compare the false views of
those living beings’ collective share with the false views of the indicidual
karma of one person. The individual man with the diseased eyes is the same as
the people of that country. He sees circular reflections erroneously brought
about by a disease of the seeing. The beings with a collective share see
inauspicious things. In the midst of their karma of identical views arise
pestilence and evils. Both are produced from a beginningless falsity in
the seeing. It is the same in the three thousand continents of Jambudvipa,
throughout the four great seas and in the Saha World and throughout the ten
directions. All countries that have outflows and all living beings are the
enlightened bright wonderful mind without outflows. Because of the false,
diseased conditions that are seen, heard, felt, and known, they mix and unite
in false birth, mix and unite in false death. If you cane leave far behind all
conditions which mix and unite and those which do not mix and unite, then you
can also extinguish and cast out the causes of birth and death, and obtain
perfect Bodhi, the nature which is neither produced nor extinguished. It is the
pure clear basic mind, the everlasting fundamental enlightenment.
Nhị
Chủng Vô Nhân Luận: Two theories on the absence of
cause—Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Chín, phần Thập Hành Ấm Ma, Đức Phật đã
nhắc ngài A Nan về hai thứ vô nhân như sau: “Ông A Nan nên biết các người thiện
nam trong tam ma địa được chính tri ấy, chính tâm yên lặng sáng suốt. Mười loại
Thiên ma chẳng tìm được chỗ tiện, để được tinh nguyên cùng tột căn bản của 12
loài sinh. Đối trong bản loại, cái sinh cơ căn nguyên tỏ bày. Xem xét cái trạng
thái u thanh viên động bản nguyên. Trong cái viên nguyên mới khởi ra cái so đo
chấp trước. Người ấy bị đọa vào hai vô nhân luận.”—According to the Surangama
Sutra, book Nine, in the part of the ten states of formation skandha, the
Buddha reminded Ananda: “Ananda, you should know that when the good person has
obtained proper knowledge and his practice of samatha, his mind is unmoving,
clear, and proper, and it cannot be disturbed by the ten kinds of demons
from the heavens. He is now able to intently and thoroughly investigate the
origin of all categories of beings. As the origin of each category becomes apparent, he can contemplate the source of the subtle, fleeting and
pervasive fluctuation. But if he begins to speculate on that pervasive source,
he could fall into error with two theories of the absence of cause.”
1) Một là người đó thấy gốc vô nhân. Tại sao? Người ấy đã được
sinh cơ toàn phá, nhờ nhãn căn 800 công đức, thấy trong tám vạn kiếp: chúng
sanh theo dòng nghiệp chảy quanh, chết chỗ đây, sinh chỗ kia. Chỉ thấy chúng
sanh luân hồi trong ngần ấy. Ngoài tám vạn kiếp ra, bặt không thấy gì nữa. Bèn
cho là những chúng sanh trong thế gian mười phương, ngoài tám vạn kiếp, không
có nhân tự có. Bởi so đo chấp trước, mất chính biến tri, đọa lạc vào ngoại đạo,
mê lầm tính Bồ Đề: First, perhaps this person sees no cause for the origin of
life. Why? Since he has completely destroyed the mechanism of production, he
can, by means of the eight hundred merits of the eye organ, see all
beings in the swirling flow of karma during eighty thousand eons, dying in one
place and being reborn in another as they undergo transmigration. But he cannot
see beyond eighty thousand eons. Therefore, he concluded that for the last
eighty thousand eons living beings in the ten directions of this and other
worlds have come into being without any cause.
2) Hai là người thấy cuối vô nhân. Tại sao? Người ấy đối
với sinh cơ, đã thấy căn nguyên, như người sinh người, chim sanh chim. Con quạ
thì từ xưa nay vẫn đen, cò vẫn trắng. Người và trời vẫn đi thẳng, súc sanh vẫn
đi ngang. Sắc trắng chẳng phải giặt rữa mà thành. Sắc đen chẳng phải nhuộm mà
nên. Từ tám vạn kiếp, không có dời đổi. Nay hết cái hình ấy, cũng lại như vậy,
mà tôi vẫn chẳng thấy Bồ Đề. Thế nào lại có sự thành Bồ Đề? Mới biết ngày nay
các vật tượng đều gốc không nhân. Vì so đo chấp trước như thế, mất chính biến
tri, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề—Second, perhaps this person sees no
cause for the end of life. And why? Since he perceives the origin of life, he
believes that people are always born as people and birds are always born as
birds; that crows have always been black and swans have always been white; that
humans and gods have always stood upright and animals have always walked on
four legs; that whiteness does not come from being washed and blackness
does not come from being dyed; and that there have never been nor there will be
any changes for eighty thousand eons. He says: “As I now examine to the end of
this life, I find the same holds true. In fact, I have never seen Bodhi, so how
can there be such a thing as the attainment of Bodhi? You should now realize
that there is no cause for the existence of any phenomena.” Because of this
speculation, he will lose proper and pervasive knowledge, fall into
externalism, and become confused about the Bodhi nature.
Nhị
Chủng Xá Lợi: Hai loại xá lợi—Two kinds of
relics:
1) Thân Xá Lợi: The Buddha’s physical remains or relics.
2) Pháp Xá Lợi: Kinh xá lợi—Pháp thân xá lợi—Dharmakaya—The
sutras—Spiritual or dharmakaya remains.
Nhị
Chướng: Avaranadvaya (skt)—Hai chướng
ngại—Two hindrances:
(A)
1) Phiền não chướng: Klesavarana (skt)—Hindrance of
passions—Afflictive hindrance—Những dục vọng và ảo tưởng làm tăng tái sanh và
trở ngại Niết bàn—The passions and delusion which aid rebirth and hinder
entrance into nirvana.
2) Sở tri chướng: Jneyavarana (skt)—Hindrance of knowledge—The
intellectual hindrance—Trí huệ trần tục cho những điều không thật là thật làm
cản trở chân trí huệ—Worldly wisdom, assuming the seeming as real, a hindrance
to true wisdom. The barrier of the known, arising from regarding the seeming as
real.
***
Trong hai thứ chướng kể trên thì phiền não chướng dễ bị đoạn diệt hơn sở tri
chướng, vì ý muốn sống và những thúc đẩy vị kỷ là cái cuối cùng mà người ta có
thể điều phục hoàn toàn—Among the two above mentioned hindrances of conative
and intellectual, the latter is easier to destroy than the former, for the will
to live or the egoistic impulses are the last thing a man can bring under
complete control.
(B)
1) Phiền não chướng: See (A) 1.
2) Giải thoát chướng: Hindrances to deliverance.
(C)
1) Lý chướng: Hindrances to truth, such as false doctrine.
2) Sự chướng: Hindrances of the passions to entry into nirvana
such as desire.
Nhị
Cộng Bát Nhã: Things in common—According to the
Prajna Sutra, there are two kinds:
1) Cộng Bát Nhã: Pháp chung cho cả Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ
Tát—The things in common with Sravakas, Pratyeka-buddhas and Bodhisattvas.
2) Bất Cộng Bát Nhã: Pháp riêng cho Bồ Tát, đối lại với pháp
riêng cho Thanh Văn và Duyên Giác—The things special to Bodhisattvas, in
contrast with the things they have in common with Sravakas and
Pratyeka-buddhas.
Nhị
Cúng Dường: Hai loại cúng dường—Two forms of
service or offerings:
(A)
1) Xuất triền cúng dường: Cúng dường không cầu phước báo nhơn
thiên (cúng dường cho những vị đã thoát ly sanh tử)—Offerings to those who have
escaped from the toils.
2) Tại triền cúng dường: Cúng dường để cầu phước báo nhơn thiên
cho mình (cúng dường cho những vị còn luân lưu trong sanh tử)—Offerings to
those who are still living in the toils.
(B)
1) Tài cúng dường: Offerings of goods.
2) Pháp cúng dường: Offerings of the Buddha truth.
(C)
Theo Kinh Đại Bảo Tích, có hai loại cúng dường—According to the Great Jewel
Collection Sutra, there are two kinds of offering.
1) Cúng Dường Pháp Thân
Phật—Offering to the Buddha-Dharma Body: Cúng dường Pháp Thân Phật là đọc,
tụng, hoặc biên chép hay ấn tống, lưu hành 12 bộ kinh của Đức Phật—To make
offerings to the Buddha’s Dharma Body is to read, chant, print, or copy, either
hand-written or printed to distribute and spread widely the teachings of the
Buddha’s Twelve Dharma Doctrines.
2) Cúng Dường Sinh Thân Phật—Offering to the Buddha-Birth
Body: Cúng dường Sanh Thân Phật là cúng dường Ứng, Hóa Thân và hình tượng
hay Pháp tượng của Phật—To make offerings to the Birth-Body of the Buddha is to
make offerings to the Adaptation, Transformation Body, or pictures and statues
(Dharma Statues) of the Buddha.
Nhị
Cửu Ngũ Bộ: Mười tám tông phái Tiểu Thừa và
năm tông phái Luật tông—The eighteen Hinayana Sects and the five Vinaya sects.
Nhị
Cửu Vận: Mười tám “đinh-ngạn-đa” hay sự
biến hóa của động từ trong Phạn ngữ—The eighteen tinanta, personal endings of
the Sanskrit verb.
Nhị
Diệu: Hai diệu nghĩa của Kinh Pháp
Hoa—The dual marvel of Lotus Sutra:
1) Tương đãi diệu: Quan điểm thô thiển hãy còn trong bỉ thử đối
đãi—Comparative view, compared with all previous teaching, which is rough
ground-work.
2) Tuyệt đãi diệu: Quan điểm toàn mãn không còn thô thiển đối
đãi—Perfect view of teaching, hence it is wonderful in comparison with all
previous doctrine, and absolutely wonderful in itself.
**
For more information, please see Nhị Viên
Nhị
Dụ: Theo Nhân Minh Luận, có hai loại
dụ—According to the Hetuvidya-sastra (the treatise explaining causality, or the
nature of truth and error), there are two kinds of drstanta or examples.
1) Dụ Y: Lấy vật thể làm chỗ dựa của dụ, như cái bình, cái
chay, vân vân—The subject of the example, e.g. a vase, a bottle.
2) Dụ Thể: Lấy cái nghĩa lý làm chỗ dựa của dụ, như cái bình
không thường hằng—The predicate, e.g. the vase is not eternal.
Nhị
Dực: Một cặp cánh—A pair of wings:
1) Bố thí: Charity.
2) Trí huệ: Wisdom.
Nhị
Đàn: Hai loại bố thí cúng dường—The two
dana (đàn na)—Two kinds of donating or almsgiving:
(A)
1) Thế gian đàn: Cách bố thí của phàm phu còn mong phước báo
hữu lậu—Conditionally Ordinary alms.
2) Xuất thế gian đàn: Cách bố thí vô lậu của bậc Thánh nhân Bồ
Tát—Spiritual or other worldly gifts—Unconditionally alms.
(B)
1) Ma Đàn: Bố thí vì danh vì lợi—Mara-giving, or giving out of
fame and gains.
2) Phật Đàn: Bố thí với tấm lòng trong sạch, thanh tịnh giống
như Phật thuyết pháp cứu độ chúng sanh—Buddha-giving or Buddha-charity as
motive of giving, or preaching, and of self-sacrifice, or self-immolation.
Nhị
Đạo: Hai đạo—Two ways:
(A)
1) Vô ngại đạo: Vô gián đạo hay đạo đoạn trừ những chướng ngại
cần phải đoạn trừ—The open or unhindered way, or the way of removing all
obstacles or intervention (delusions).
2) Giải thoát đạo: Con đường giải thoát bằng thực chứng chân
lý—The way of release by realization of truth.
(B)
1) Nan hành đạo: Con đường khó bằng thực hành lục Ba La Mật
cũng như những giới luật khác—The hard way of works, by practicing the six
paramitas and other diciplines.
2) Dị hành đạo: Con đường dễ bằng cách niệm hồng danh Phật A Di
Đà—The easy way of salvation, by recitation or invocation of Amitabha.
(C)
1) Hữu lậu đạo: Con đường của tái sanh hay sanh tử—The way of
reincarantion or mortality.
2) Vô lậu đạo: Con đường giác ngộ và giải thoát mọi khổ đau của
luân hồi sanh tử—The enlightened way of escape from miseries of transmigration.
(D)
1) Giáo đạo: Đạo giáo là phương tiện—The way of instructions.
2) Chứng đạo: Thực chứng con đường của chư Phật—The way of
realization.
Nhị
Đáp: Hai cách đối đáp—Two kinds of
reply:
1) Ngôn đáp: Dùng ngôn ngữ mà trả lời—Reply by words.
2) Thị tướng đáp: Dùng các loại hình tướng mà trả lời—Reply by
signs.
Nhị
Đế: Hai loại chân lý—Two Truths—Two
forms of statement—Theo Trung Luận Quán cho rằng chư Phật trong quá khứ đã
tuyên thuyết những giáo lý của mình cho chúng sanh bằng phương tiện ‘nhị đế’
nhằm hướng dẫn chúng sanh vào chánh đạo. Dù chúng ta có thể nói đến sự hữu,
nhưng nó giả tạm và bất ổn. Ngay cả sự phi hữu hay không cũng giả tạm và bất
ổn. Vì vậy không có sự hữu thực sự, cũng không có cái không đích thực. Hữu thể
và vô thể chỉ là hậu quả của tương quan nhân quả và do đó, không có thực. Như
vậy lý tưởng của hai cực đoan ‘hữu thể’ và ‘vô thể’ đều bị xóa bỏ. Vì vậy khi
chúng ta đề cập đến ‘tục đế’ chúng ta có thể nói về thế giới hiện tượng mà
không làm điên đảo thế giới bản tính. Cũng như vậy, khi đề cập đến ‘chân đế’
chúng ta có thể vươn tới thế giới bản tính , mà không làm xáo trộn thế giới
hiện tượng hay thế giới giả danh. Phi hữu cũng là hữu. Danh hình và tướng sắc
đồng thời là không, và rồi không cũng là hình danh sắc tướng—According to the
Madhyamika Sastra, the Buddhas in the past proclaimed their teachings to the
people by means of the twofold truth, in order to lead people to a right way.
Though we may speak of existence, it is temporary and not fixed. Even
non-existence or void is temporary and not fixed. So there is neither a real
existence nor a real void. Being or non-being is only an outcome of causal
relation and, therefore, unreal. Thus the ideal of the two extremes of being
and non-being is removed. Therefore, when we deal with the worldly truth, the
phenomenal world can be assumed without disturbing the noumenal state.
Likewise, when we deal with the higher truth, the noumenal state can be attained
without stirring the world of mere name. Non-existence is at the same time
existence, and existence in turn is non-existence. Form or matter is the same
time the void, and the void is at the same time form or matter.
(A)
1) Chân đế: Paramattha-saccam (p)—Paramartha-satya (skt)—Đệ
Nhứt Nghĩa Đế hay chân lý truyệt đối—Absolute Truth—Ultimate Truth—Thắng nghĩa
đế hay sự thật tối thượng. Chân đế muốn nói đến sự nhận thức rằng mọi vật ở thế
gian đều không có thực, giống như ảo ảnh hay một tiếng vang. Tuy nhiên, không
thể đạt đến chân đế nếu không dựa vào tục đế. Tục đế chỉ là phương tiện,
còn chân đế mới là cứu cánh. Chính theo Chân đế thì Đức Phật giảng rằng tất cả
các pháp đều ‘không.’ Với những ai chấp ‘hữu’ thì học thuyết ‘phi hữu’ sẽ được
giảng theo phương diện ‘chân đế’ để dạy họ cảnh giới vô danh vô tướng—Reality
or ultimate truth—Supreme truth—The correct dogma or averment of the
enlightened. The ultimate truth is the realization that worldly things are
non-existent like an illusion or an echo. However, transcendental truth cannot
be attained without resorting to conventional truth. Conventional truth is only
a mean, while transcendental truth is the end. It was by the higher truth that
the Buddha preached that all elements are of universal relativity or void
(sarva-sunyata). For those who are attached to Realism, the doctrine of
non-existence is proclaimed in the way of the higher truth in order to
teach them the nameless and characterless state.
2) Tục đế: Sammuti-saccam (p)—Samvrti-satya (skt)—Chân lý quy ước—Conventional Truth—Sự thật tương đối hay sự tướng thế gian hay cái thấy vẫn còn bị phiền não chi phối. Cái nhìn của phàm phu thấy vạn pháp là có thật. Tục đế muốn nói đến sự vô minh hay mê muội bao phủ trên thực tại, tạo ra một cảm tưởng sai lầm. Chính theo tục đế mà Đức Phật đã giảng rằng tất cả các pháp có được là do nhân duyên. Với những kẻ chấp vào ‘không’ của hư vô luận, lý thuyết về ‘hữu’ sẽ được giảng giải theo phương diện tục đế. Theo Ngài Long Thọ trong triết học Trung Quán, hiện tượng cũng có một thứ thực tại tánh. Chúng chính là biểu hiện của thực tại (samvrtisatya) hay Thế Tục Đế. Biểu hiện chỉ đường dẫn đến sự vật mà nó biểu trưng. Thế Tục đế hay biểu hiện của thực tại là biểu tượng, là bức màn, nó che khuất thực tại tuyệt đối hay Thắng Nghĩa Đế. Nói tóm lại, thế đế là những gì che khuất tất cả; thế đế là vô minh che đậy bản thể của tất cả sự vật. Thế Tục đế được hiểu theo nghĩa ‘thực tại thực dụng’ là phương tiện để đạt tới thực tại tuyệt đối hay chân đế. Nếu không dựa vào thực tại thực dụng hay thế đế thì không thể giáo huấn về chân lý tuyệt đối hay chân đế. Và nếu không biết chân lý tuyệt đối thì không thể đạt tới Niết Bàn được. Chính vì thế mà trong Trung Quán Luận, ngài Long Thọ đã khẳng định: “Đứng trên quan điểm tương đối hay thế đế thì ‘Duyên Khởi’ giải thích cho các hiện tượng trần thế, nhưng nhìn theo quan điểm tuyệt đối thì chân đế muốn nói đến sự