Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tuyển tập 112

27 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13018)
Tuyển tập 112


TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG



Tuyển tập 10 bài Số 112 - thơ Mặc Giang

(Từ bài số 1111 đến số 1120)

macgiang@y7mail.com; thnhattan@yahoo.com.au

 

01. Ca vang cùng vạn thể 1111

02. Dữ - Hiền nhân thế 1112

03. Hằng hữu vô cùng 1113

04. Việt Nam ngạo nghễ 1114

05. Nghe tiếng quê hương 1115

06. Thương mãi làng quê 1116

07. Chỉ một vần thơ 1117

08. Tặng một cõi thơ 1118

09. Trả ta sông núi 1119

10. Dõng dạc tuyên ngôn 1120

 

Ca vang cùng vạn thể

 

Ta đi trong mộng trong mơ

Để cùng tinh tú lững lờ hư vô

Ta đi bến đợi sông chờ

Để cùng hai ngã đôi bờ nước reo

Ta đi dốc thẳm núi đèo

Để cùng ghềnh láng cheo leo đỉnh đồi

Kia thời đá lở cát bồi

Đây thời bèo bọt nổi trôi vô thường

Kia thời tiếng nhạn kêu sương

Đây thời tiếng quốc tư lường núi sông

Đi cho hết cả mùa đông

Băng qua mùa hạ oi nồng can qua

Đi cho hết cả xuân hoa

Băng qua thu tím lá sa sau cùng

Không còn có điểm vô chung

Ngược về khởi thủy lạnh lùng bèo mây

Không còn ngọn gió heo may

Phất phơ tê tỉ nỗi này tình kia

Rụng rơi hết cả chia lìa

Thênh thang lối ngõ mang hia lên ngàn

Hòa cùng vạn thể ca vang.

 

Tháng 9 – 2008

 

Dữ - Hiền nhân thế !

 

Cõi trần gian tròng trành muôn vạn nẻo

Kiếp nhân gian khấp khểnh muôn vạn đường

Hầm hố gập ghềnh, sỏi đá nhiễu nhương

Mỗi con người chạm va nhiều góc cạnh

 

Cái lò cừ luôn sục sôi nóng bỏng

Luyện thép gan, tinh lọc những phiêu bồng

Cát bụi phong trần, bèo bọt lông bông

Đổ vào bãi sắc không vờn vũ trụ

 

Xoay tít mãi cùng thiên hà tinh tú

hư vô vẫn trống rỗng vô cùng

Đầu nguồn vô thỉ, tận đáy vô chung

Bao sinh thể tùy nhân duyên biến thái

 

Ba vạn sáu, một quãng đường ngắn ngủi

Kiếp con người, đấu đá nát quần manh

Bỉ thử ngã nhân, quyền thế lợi danh

Chưa thỏa dạ, đã hoang tàn nghĩa địa

 

Biết thống khổ, mới sinh, la chí chóe

Nhưng lớn lên, biển đục quậy ba đào

Tánh khí lớn dần, ngã mạn cống cao

Sụm bà chè, đeo cổ thành chí tử

 

Chưa đụng chuyện, đâu có ai chịu dữ

Đụng chuyện rồi, mới biết được ai hiền

Thánh cũng ê mình, đừng nói huyên thuyên

Phải không hỡi con người trong nhân thế !

 

Hằng hữu vô cùng

 

Đêm đêm thắp ánh sao mờ

Ô kìa tinh tú lững lờ mà chi

Canh thâu gõ nhịp thầm thì

Hư vô khép mở đường đi lối về

Bắt ngang ngọn mạch Tào Khê

Nhìn trông bến mộng sông mê điệp trùng

Có hoành thì mới có tung

Nếu thỉ không có, thì chung có gì

Băng trình từ thuở ra đi

Đan thanh từ độ tư nghì băng tâm

Ba mươi mới có ngày rằm

Ngàn sao lấp lánh trăng vàng mới thanh

Nhìn trông mây trắng trời xanh

Nụ hoa chúm chím trên cành Vô Ưu

Hữu vô cứ thế chuyển lưu

Thỏng tay vào chợ tầm ngưu chi hè

Từ trong chỉ một tánh nghe

Thì bao thể tánh muôn bề tinh thông

Khi thời núi khác với sông

Khi thời núi núi sông sông khác nào

Mộng đâu mà hỏi chiêm bao

Phong sương tuế nguyệt cây đào trổ bông.

 

Tháng 9 – 2008

 

Việt Nam ngạo nghễ

 

Mai tôi chết, không cần xây nấm mộ

Đem thi hài gởi lại chốn quê xưa

Để lắng nghe tiếng thương nhớ dư thừa

Mà khi sống chưa thỏa lòng ước nguyện

 

Mai tôi chết, không cần thờ linh vị

Đem đốt đi, tro bụi rải quê hương

Tro bụi bay trên khắp mọi nẻo đường

Mà khi sống, đoạn trường đeo không dứt

 

Mai tôi chết, trả tôi về đất mẹ

Hồn bay bay đền đáp lại ơn cha

Cha của tôi nhuộm xương máu sơn hà

Cho mẹ, cho em, cho quê hương được sống

 

Mai tôi chết, thả lên đồi lỗi hẹn

Một kiếp này chưa vẹn ước non sông

Thì kiếp sau sẽ tiếp tục tuôn dòng

Cho nước chảy ra sông dài biển rộng

 

Mai tôi chết, thả lên rừng gió lộng

Gió mang đi, thét núi khiếp oai linh

Dãy Trường Sơn ôm ấp trọn bóng hình

Sóng biển Đông vỗ điệp trùng non nước

 

Mai tôi chết, hồn bay tìm chim Lạc

Mảnh giang san phiêu bạt cánh chim Hồng

Tìm cội nguồn để lạy Tổ lạy Tông

Đàn cháu con quyết không hề phản bội

 

Mai tôi chết, nhưng hồn tôi không chết

Thịt xương này lưu cốt tủy ông cha

Anh linh này tô son sắt châu pha

Truyền nối nhau năm ngàn năm văn hiến

 

Tôi, chính là anh, là em, là chị

Của những ai cùng huyết thống Việt Nam

Trên tấm thân cùng máu đỏ da vàng

Trang sử Việt hùng thiêng reo kim cổ

 

Tất cả chúng ta, cùng Cha cùng Mẹ

Mẹ tay Tiên, Cha gót ngọc mình Rồng

Hễ đất trời còn có núi có sông

Thì chúng ta còn Việt Nam muôn thuở

 

Tất cả chúng ta, cùng Tông cùng Tổ

Tổ Hùng Vương tọa thị đất Văn Lang

Vũ trụ kia còn vang động càn khôn

Ta dõng dạc tuyên ngôn : Việt Nam ngạo nghễ.

 

Tháng 9 – 2008

 

Nghe tiếng quê hương

 

Ta nghe tiếng nhớ thương

Thơm tự tình quê cha

Thơm hương yêu đất mẹ

Anh chị em vui sống chan hòa

 

Ta nghe tiếng xa xưa

Nơi gió nắng mưa lùa

Nơi chôn nhau cắt rốn

Khi vừa mang tiếng nói chào đời

 

Ta nghe tiếng tình quê

Vừa bập bẹ a ê

Vừa vần xuôi vần ngược

Đã cưu mang non nước vẹn thề

 

Ta nghe tiếng quê hương

Tiếng tình tự yêu thương

Tiếng tình sâu nghĩa nặng

Trường Sơn dài ôm ấp Biển Đông

 

Ta nghe tiếng hương quê

Trải bốn mùa rụng lá

Đi xa ai không nhớ

Nên đi đâu cũng nhớ nhung về.

 

Tháng 9 – 2008

 

Thương mãi làng quê

 

Đồng vàng thơm thơm lúa chín

Nắng vàng óng ả đồng xanh

Gió reo thoang thoảng trong lành

Nghêu ngao mục đồng ca hát

 

Dân quê rộn ràng mùa gặt

Mồ hôi ướt áo lưng gầy

Đua nhau tay cắt liền tay

Dập dìu đôi vai nặng gánh

 

Sau hè rau thơm rau đắng

Bờ ao rau húng tía tô

Bếp hồng ấm lửa khoai ngô

Nồi cơm thơm thơm gạo mới

 

Cả làng tay chào tay vẫy

Hò đưa câu hát tiếng cười

Tình quê muối mặn mềm môi

Tương lân chia cơm xẻ áo

 

Ngày lên ra đồng gặt hái

Đêm về đập lúa dưới trăng

Trẻ thơ vui với chị Hằng

Người lớn ươm mơ gởi gió

 

Đầu làng con đường đất nhỏ

Cuối làng lối rẽ băng ngang

Tình quê ôm ấp thôn trang

Bốn mùa chan nhau mưa nắng

 

Thơm thơm mùi hoa cau trắng

Nồng nồng hương vị trầu cay

Vậy mà đó nhớ thương đây

Xóm trên lây lan xóm dưới

 

Trăng thề gọi sao nhắn gởi

Nắng thề gọi gió vương vương

Hàng tre khóm trúc nương nương

Loanh quanh hồng hồng bếp lửa

 

Dân quê đẹp lòng chan chứa

Tình quê đẹp dạ chứa chan

Thương thương một mái thôn làng

Ai ai không thương không nhớ.

 

Tháng 9 – 2008

 

Chỉ một vần thơ

 

Vần thơ gởi lên non

Núi rừng cao lộng gió

Vần thơ gởi ghềnh đá

Biển cả hát trùng dương

 

Vần thơ đi muôn phuơng

Ngàn xa kéo gần lại

Vần thơ ra quan ải

Mọi ranh giới mở thông

 

Vần thơ tới Cù Mông

Nhìn xa xa Đèo Cả

Hai bên đường xanh lá

Chót vót đỉnh Hải Vân

 

Băng băng qua Đèo Ngang

Trùng trùng Trường Sơn gọi

Biển Đông triều sóng vẫy

Ôi cẩm tú giang san

 

Câu hò Ải Nam Quan

Mũi Cà Mau ca hát

Sông Gianh liền mấy khúc

Bến Hải nối mấy bờ

 

Nhớ lại thuở dựng cờ

Thời Văn Lang quốc tổ

Năm ngàn năm vẫn nhớ

Đến vạn thuở không pha

 

Dân tộc Việt Nam ta

Bắc Nam Trung tam thể

Dòng Lạc Hồng tuyệt thế

Đẹp nhất giống Rồng Tiên

 

Ra đi khắp mọi miền

Anh da vàng máu đỏ

Chị tóc đen mắt lệ

Em tình tự khơi dòng

 

Cùng một Tổ một Tông

Cùng một nguồn một cội

Kinh qua bao thời đại

Mãi mãi chung một thôi

 

Vần thơ chỉ mấy lời

Kết tinh bao tuế nguyệt

Ôi vần thơ bất tuyệt

Dung thông khắp cổ kim

 

Vũ trụ kia lặng yên

Ngân hà kia bất động

Ngàn sao còn chìm lắng

Tinh tú còn xa mờ

 

Ta kết thúc vần thơ

Kẻo thi ca đóng cửa

Mai sau còn nói nữa

Cũng chỉ một vần thơ.

 

Tháng 9 – 2008

 

Tặng một cõi thơ

 

Ta bước vào cõi thơ

Tất cả đẹp như mơ

Từ nụ hoa gió nắng

Đến chiếc lá vàng khô

 

Ta bước vào cõi thơ

Tất cả đẹp như mơ

Từ ngàn sao lấp lánh

Đến bèo bọt trôi bờ

 

Kia lâu đài tráng lệ

Nọ một mái lều tranh

Đó gió mát trăng thanh

Đây đèo heo hút gió

 

Quê nghèo gồng gian khổ

Phố thị cỡi phồn hoa

Sự nhộn nhịp thành đô

Sự an bình thôn dã

 

Màu xanh xuân hoa lá

Màu tím độ thu vàng

Lành lạnh mùa đông sang

Oi nồng trong nắng hạ

 

Vết rong đeo bờ đá

Dấu cũ dính bên đường

Hoa cỏ ngậm giọt sương

Đồng vàng thơm lúa chín

 

Giữa rừng khuya thanh vắng

Giữa biển đêm xa vời

Cái đẹp nhoẻn nụ cười

Nỗi đau thầm tiếng khóc

 

Cõi thơ nhìn có khác

Mắt thơ nhìn thoáng qua

Tất cả đồng giao thoa

Vẽ bức tranh phù thế

 

Khổ, có hay của khổ

Vui, có hay của vui

Cả hai cùng sánh đôi

Vẽ lên đường bất nhị

 

Rơi tận cùng của ý

Mới khởi động âm ba

Cả hai khi cuối đà

Mình với ta là một

 

Phóng cao cuối điểm tột

Vút sâu cuối điểm cùng

Cả hai sẽ đi chung

Vào con đường tuyệt lộ

 

Qua thơ, nhìn hoa nở

Với thơ, nhìn hoa tàn

Viết vài chữ băng ngang

Cánh hoa chưa khép lá

 

Qua thơ, nhìn cuộc thế

Với thơ, trải dòng đời

Viết vài chữ lơi khơi

Trần gian chưa mở cửa

 

Ngay nơi nấm mộ cổ

Còn thấy một kiếp người

Ngay sau một nụ cười

Mắt buồn khô khóe lệ

 

Ai sống trong trần thế

Biết thêm một cõi thơ

Là ôm cả hư vô

Ca vang cùng vũ trụ

 

Cuộc đời vốn du thủ

Cỡi mộng thực phiêu du

Là sống với thiên thu

Chận hai đầu chung thỉ

 

Chỉ cần một hơi thở

Thế giới động ba ngàn

Chỉ cần tịch âm vang

Cả hư vô biến mất

 

Lật trang thơ một nét

Đã sống dậy muôn trùng

Mở muôn vạn càn khôn

Nhét cõi thơ trống rỗng

 

Ta không hề trào lộng

Ai thử bước vào đi

Mở bút viết vần thi

Thần Tiên tròn xoe mắt

 

Ta không hề thêm bớt

Ai vào cõi thơ chơi

Tranh tuyệt thế không lời

Vẽ ba ngàn thế giới

 

Thôi, ta không nói nữa

Để đời còn cõi thơ

Kẻo vũ trụ tàn khô

Thỉ chung tan mây khói

 

Cõi thơ là thế ấy

Ai biết nhận cõi thơ

Sẽ không thấy trơ vơ

Trên hành trình bất diệt

 

Xin chào tranh diễm tuyệt

Tặng đời một cõi thơ

Xin chào người nhân thế

Sống đời đẹp như mơ

 

Ta ôm cả hư vô

Vũ trụ thôi chao động

Ngân hà thôi xao xuyến

Tặng đời một cõi thơ.

 

Tháng 9 – 2008

 

Trả ta sông núi

Xin mượn tựa đề và cảm tác khi đọc

bài Trả Ta Sông Núi của Thi bá Vũ Hoàng Chương

 

Trả ta sông núi của Rồng Tiên

Tổ quốc trời nam thật vĩnh nhiên

Tọa thị phương nam son sắt ấy

Uy nghi lẫm liệt khí hùng thiêng

 

Trả ta sông núi của ông cha

Sông máu núi xương dựng nước nhà

Da chất thịt chồng xây lịch sử

Tranh thêu gấm vóc lộng sơn hà

 

Trả ta sông núi của muôn đời

Liệt nữ anh hùng gương sáng soi

Bảo vệ truyền lưu trao thế hệ

Ngàn năm tâm lực mãi tô bồi

 

Trả ta sông núi tự ngàn xưa

Dân tộc Việt Nam dũng khí thừa

Đồng bọc đồng bào đồng sắc thái

Muôn người như một biết hay chưa

 

Trả ta sông núi để ngàn sau

Con cháu Rồng Tiên nhuận sắc màu

Không thẹn tiền nhân khai mở nước

Việt Nam ngời sáng rạng minh châu

 

Trả ta sông núi mãi khơi dòng

Sừng sững Trường Sơn đỡ núi sông

Triều sóng Biển Đông chống vọng ngoại

Vó câu cửa sổ tựa lông hồng

 

Trả ta sông núi hát Sông Hồng

Ca ngợi Thái Bình đón gió đông

Hát Cửu Long giang hòa chín khúc

Đồng Nai Bến Nghé mãi chờ mong

 

Trả ta sông núi vẹn ba miền

Sông biển đảo xa nối đất liền

Rừng thẳm cao nguyên đèo gió hú

Đồng bằng nương rẫy ngọc tay tiên

 

Trả ta sông núi khắp ba miền

Xẻ núi mở đường thẳng tiến lên

Lấp hố be mương cầu nối nhịp

Bắc Trung Nam một dãi châu viên

 

Trả ta sông núi vẹn câu thề

Tim sắt gan chì thanh sử

Thân tử khí hùng luôn bất tử

Hồn thiêng lộng gió thét sơn khê

 

Trả ta sông núi giống da vàng

Dân tộc kiêu hùng nước Việt Nam 

Nam bắc đông tây đừng động thái

Đụng vô rồi kéo chạy tan hoang

 

Trả ta sông núi vẹn cơ đồ

Một tấc chẳng suy thuở dựng cờ

Một khoảnh không mòn trang sử Việt

Tử thành một khắc vạn xương khô

 

Trả ta sông núi của hùng anh

Lấp biển dời non dựng sử xanh

Đội đá vá trời xây tổ quốc

Lòng son dạ sắt rạng thiên thanh

 

Trả ta sông núi nước non này

Tự cổ tới kim không đổi thay

Đến mãi ngàn sau không biến chuyển

Thành đồng vách núi mãi không lay

 

Trả ta sông núi nước non nhà

Tích tịch tình tang trổi khúc ca

Con cháu Lạc Hồng reo tiếng hát

Ngân dài quốc quốc với gia gia.

 

Mặc Giang

Tháng 10 – 2008

 

Dõng dạc tuyên ngôn

 

Ta đâu có bỏ quê hương ta

Bởi thế thời nghiêng ngửa lại qua

Bởi ngã nhân bào ảnh lộng gió

Nên phong ba bão táp quê nhà

 

Ta đâu đánh đổi quê hương ta

Nhũng nhặng đẩy đưa nghiệt ngã mà

Xanh đỏ trắng đen đeo thế kỷ

Nên trầm kha đất mẹ quê cha

 

Ta luôn ngước mặt ngẩng cao đầu

Chống đỡ cái khiên đạp thuẫn mâu

Đẽo đá tô bồi son sắt thắm

Lửa vàng gang thép luyện minh châu

 

Hãy nhớ, ngàn năm đuổi Bắc xâm

Trăm năm ròng rã chống Tây xâm

Rong rêu bèo bọt phường vong bản

Nào nghĩa gì đâu bóng ngoại nhân

 

Dõng dạc tuyên ngôn non nước ta

Nguồn xưa trả lại đất quê cha

Cội xưa trả lại tình quê mẹ

Tiên Tổ muôn đời trổi khúc ca

 

Tích tịch tình tang vạn lý hề

Quê hương gấm vóc lộng sơn khê

Giang san cẩm tú reo sông biển

Văn hiến ngàn năm vẹn ước thề

 

Tích tịch tình tang vạn nhịp cầu

Viễn đông hòn ngọc rạng minh châu

Đông Tây Nam Bắc soi kim cổ

Dòng giống Lạc Hồng không dễ đâu

 

Quê hương đâu mất, bỏ quê hương

Sông núi đâu mòn, bởi gió sương

Trải nắng bền gan trêu tuế nguyệt

Dầm mưa vững chí cợt phong trần

 

Quê hương còn đó vẹn câu thề

Kế thế truyền nhau mãi nhớ nghe

Dạ sắt tô bồi thêu gấm ngọc

Lòng son nhuận thắm lộng pha lê

 

Quê hương ta đó đẹp nhà nhà

Khói quyện cờ bay nhờ đức Cha

Bát ngát hương thơm nhờ đức Mẹ

Dấu son ấn ngọc tỏa châu pha

 

Quê hương ta đó nhớ nghe em

Chị vén mành thưa tựa bức rèm

Anh đứng giữa trời cao đất rộng

Cùng tôi dõng dạc phát tuyên ngôn

 

Lịch sử huy hoàng nước Việt Nam

Muôn năm rạng rỡ đất trời nam

Hùng thiêng sông núi hồn dân tộc

Tọa thị phương đài đã định ban.

 

Mặc Giang

Tháng 10 – 2008

01. Tiếng lòng nức nở quê hương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương còn đó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ 04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12499)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9610)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10165)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20503)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11702)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46792)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12143)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11833)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17916)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10197)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17875)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18257)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17088)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11531)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11688)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19860)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7220)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9248)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14933)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18714)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15322)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17374)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29839)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31613)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32885)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30887)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32662)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39416)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40518)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50234)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16132)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25531)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17858)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33401)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39701)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44084)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23142)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44145)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42956)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44475)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39279)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19306)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35728)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24270)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20448)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19066)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18976)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19370)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20372)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15610)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36383)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20351)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31592)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15980)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 35984)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34464)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19543)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18990)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22981)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20230)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant